Trước đó ngoại trừ bến thuyền tiên gia nằm ở nơi tiếp giáp giữa nước Sơ Thủy và nước Tùng Khê, Trần Bình An xuống thuyền mua đồ ở phường Thanh Phù, còn lại mấy lần đi qua bến thuyền tiên gia, Trần Bình An đều tới đi vội vàng, hoặc là chỉ xem chứ không mua. Hôm nay hắn lại dẫn theo nhóm người Bùi Tiền, đi dạo bến thuyền nước Thanh Loan này một lần.
Trần Bình An cho bốn người trong tranh cuộn mỗi người một đồng tiền tiểu thử, để bọn họ tự mua đồ vật. Tiền thần tiên trên núi có cách nói là “ngàn trăm mười”, một đồng tiền hoa tuyết trị giá ngàn lượng bạc trắng của vương triều thế tục, một đồng tiền tiểu thử là mười vạn lượng bạc trắng. Cầm một đồng tiền hoa tuyết, không cần hi vọng mua được linh khí pháp bảo, nhưng có thể mua một ít đồ vật hiếm lạ trên núi, tay nghề thú vị, bỏ vào trong túi thỉnh thoảng lấy ra nhìn ngắm.
Trần Bình An hẹn trước với bốn người trong tranh cuộn, sau một canh giờ sẽ gặp mặt ở một nơi nổi tiếng nhất bến thuyền, sau đó dẫn theo Bùi Tiền đi dạo. Mua đồ ở bến thuyền, những nơi có cao nhân trấn giữ như phường Thanh Phù, khả năng mua hời rất thấp, hơn nữa giá cả khá đắt. Còn một số người đeo bọc vải không có chỗ đặt chân, mới có thể khiến người ta dựa vào ánh mắt để thử vận may.
Những người này phần lớn là tu sĩ sông núi, bốn biển là nhà. Bọn họ thích thu mua bảo bối giá thấp từ một số con cháu hào phiệt gia cảnh sa sút, hoặc tự xưng bảo bối xuất xứ từ tổ tiên gia tộc, tổ sư địa tiên cảnh giới Kim Đan Nguyên Anh trong sư môn. Cách thức bán đồ đại khái cũng chỉ như vậy, người mua không cần tính toán những chuyện này.
Năm xưa Trần Bình An đi theo hào hiệp râu rậm Từ Viễn Hà, đã học được không ít đường lối. Sau đó Diêu Cận Chi giải thích về “đối đáp trong lồng”, thực ra cũng thuộc về nghề nghiệp này.
Bùi Tiền vào đời không sâu, nhìn thấy đủ loại tranh chữ thần tiên, linh bảo dụng cụ, yêu tinh quỷ quái hiếm lạ trong tiệm, quả thật là hoa cả mắt. Cô bé có một điểm tốt, thích thu gom đồ vật, được tặng thì không từ chối, bị Chu Liễm chọc là thao thiết nhỏ (kẻ tham lam), nhưng cô lại không thích tiêu tiền, không muốn bỏ ra một xu nào. Cho nên cô chỉ nhìn đồ vật mấy lần, nhìn rồi coi như là đồ của mình, tạm thời gởi lại trong tiệm mà thôi. Tuyệt đối sẽ không mở túi thơm nhỏ do Quế phu nhân tặng, đã được cô dùng làm túi tiền.
Trần Bình An thì luôn luôn không tiêu xài phung phí, cho nên đi dạo với Bùi Tiền khoảng nửa canh giờ, băng qua mười mấy cửa tiệm đều không lấy ra một đồng nào.
Nửa đường gặp phải một người đeo bọc vải, đó là một người đàn ông trung niên chân thọt tướng mạo chất phác, tự xưng họ Lưu, bảo người khác gọi mình là Lưu Can Tử. Hắn thấy Trần Bình An mặc một bộ áo bào trắng, lưng đeo trường kiếm vỏ trắng, bèn đi theo bảy tám trăm bước.
Người này dáng vẻ trung thực, nhưng nói chuyện lại rất khôn khéo. Hắn nói tổ phụ nhà mình là đại tướng quân của nước Văn Cảnh. Sau khi nước Văn Cảnh bị diệt, hoàng đế bệ hạ trên đường chạy nạn đã qua đời, đánh rơi một ngọc tỷ hình ly hổ, một trong mười bảy bảo vật của điện Giao Thái. Tổ phụ của hắn đã nhặt được mang vào dân gian.
Hôm nay có một vị đại tiên sư của nước Thanh Loan, đã tập hợp được mười sáu bảo vật, chỉ thiếu “thần bảo ngưng tụ khí vận” này. Làm nghề sưu tầm, “cầu thiện cầu toàn” là quan trọng nhất, cho nên trọng bảo “không chừng còn ẩn chứa quốc vận long khí” này có giá trị liên thành.
Sở dĩ Lưu Can Tử đi theo bảy tám trăm bước, một là vừa nhìn đã biết Trần Bình An là một công tử có tiền, tính tình lại tốt, sẽ không đuổi người, ngược lại còn cẩn thận lắng nghe. Hai là nếu hắn còn không mở hàng được, sẽ phải chịu đau khổ lớn.
Năm ngoái hắn vất vả chèo chống qua được cửa ải cuối năm, nhờ vào ba đồng tiền tiểu thử, có thể mua được mấy cái mạng của hắn rồi. Dựa theo quy củ, năm nay tháng giêng vừa qua, nếu lại không có cá lớn mắc câu thì hắn sẽ phải gặp họa. Nước có pháp luật, nghề có quy ước, thật sẽ chết người.
Vì muốn bán ra vài thứ, Lưu Can Tử có thể nói đã dùng hết mánh khóe. Thân là luyện khí sĩ cảnh giới thứ ba, lại mặt dày đi theo một đoạn đường, còn chủ động giới thiệu cho Trần Bình An về cảnh vật ở bến thuyền.
Bến thuyền tiên gia ở biên cảnh nước Thanh Loan này tên là Phong Vĩ, ban đầu khi xây dựng từng là một trấn nhỏ nông thôn. Địa danh này bắt nguồn từ một vị thần tiên cảnh giới Ngọc Phác trong lịch sử. Y dùng thân phận tu sĩ sông núi, dựa vào nghị lực và cơ duyên lớn trở thành năm cảnh giới cao, đủ loại sự tích thần tiên lưu truyền nửa châu, rất nổi danh trong số tu sĩ tự do ở Bảo Bình châu. Nhà tổ của người này nằm ở một con ngõ tên là Giáp Phong Tiểu Đạo, bến thuyền lại vừa lúc nằm ở cuối con ngõ, cho nên đời sau đã đặt tên cho nó là Phong Vĩ.
Bến thuyền nằm ở nơi tiếp giáp giữa ba nước, mà vì tranh đoạt con ngõ và nhà tổ này, mấy trăm năm qua họ Đường nước Thanh Loan và hai nước láng giềng lớn đã dùng bút và dao, đánh vô số trận trên giấy và trên sa trường. Có điều ba bên đều hẹn ngầm, chiến sự sẽ không lan tới bến thuyền. Vì chuyện này mà thư viện Quan Hồ đã mấy lần phái quân tử hiền nhân đến hòa giải.
Lưu Can Tử nói bến thuyền có một loại rượu giếng nước tiên nhân đặc biệt, một bầu nhỏ giá một đồng tiền hoa tuyết, đám quan to quyền quý nước Thanh Loan rất thích dùng nó để khoe khoang. Trần Bình An cũng thật sự mua một bầu rượu nước giếng ở một cửa tiệm nơi góc đường, xin ông chủ hai cái chén trắng, sau đó mỉm cười đưa tay ra hiệu cho Lưu Can Tử ngồi xuống uống rượu.
Lưu Can Tử vốn định đứng ở một bên ra vẻ đáng thương, không chừng công tử sẽ nổi lòng trắc ẩn, mua những đồ vật rách nát của hắn. Nhưng thật sự là con sâu rượu trong bụng quấy phá, bèn ngồi xuống uống rượu. Hắn vừa uống vừa oán giận mình không quản được miệng, nếu là mê rượu uống say, vụ mua bán này quá nửa sẽ thất bại. Nhất thời trăm cảm xúc lẫn lộn, chỉ cho là đang thưởng thức một chén rượu chặt đầu.
Trần Bình An cụng chén với Lưu Can Tử, cười hỏi:
– Ngọc tỷ này đã đáng giá như vậy, lại có tiên sư khổ công chờ đợi để gom đủ mười bảy bảo vật nước Văn Cảnh, vì sao không trực tiếp đến nhà bán?
Lưu Can Tử đã sớm nghĩ ra cách đối phó với câu hỏi này của người mua, bèn cười khổ nói:
– Vị địa tiên kia tu vi thông thiên, chỉ là nhân phẩm… ta sợ cầm tiền rồi sẽ không có mạng tiêu nữa.
Trần Bình An gật đầu, lời giải thích này cũng hợp lý. Thần tiên trên núi nói là tu đạo, nhưng cái đạo này cửa ngách tám trăm, tà đạo ba ngàn. Cho nên trên núi không phải có đại tu sĩ cảnh giới Phi Thăng như Đỗ Mậu? Không phải có Tiệt Giang chân quân Lưu Chí Mậu của hồ Thư Giản sao?
Còn như đám luyện khí sĩ tâm địa hiểm độc ở đường Hảm Thiên Phù Kê tông, là do tài nghệ thua kém, kết cục lại biến thành ngàn dặm tặng đầu người. Nếu không một khi giết được hắn và Lục Đài, hôm nay có thể tiêu xài xa hoa rồi. Có phần tài lực này, không chừng thế gian sẽ nhiều thêm một hai địa tiên cảnh giới Kim Đan.
Lưu Can Tử có lẽ cảm thấy nếu không dùng một chút thuốc mạnh, sẽ bỏ lỡ vị khách xứ khác không thiếu tiền này, bèn để chén rượu xuống, thấp giọng nói:
– Thực ra nói tổ tiên của ta là đại tướng quân nước Văn Cảnh, chỉ là nói tránh để gạt người mà thôi. Ông nội ta vốn là người làm ở phường An Nhạc thuộc kinh sư nước Văn Cảnh. Ban đầu phường An Nhạc là nơi hoàng thất chăn nuôi thú hiếm, sau đó tài lực không tốt cho nên đã bỏ hoang, cuối cùng thành nơi ở của hoạn quan và cung nữ phạm sai lầm bị cách chức ra khỏi cung.
– Vị quân chủ vong quốc của nước Văn Cảnh, đã lớn lên ở phường An Nhạc nơi che giấu những thứ xấu xa. Lúc còn nhỏ y thường được ông nội của ta chiếu cố, sau đó phất lên như diều gặp gió, từ một đứa con riêng bị giấu ở bên ngoài, không biết vì sao lại lên làm hoàng đế. Y cũng xem như một quân chủ nhớ tình, đối xử với ông nội ta rất lễ nghĩa. Sau khi kinh thành bị đại quân nước Vân Tiêu công phá, y lại chạy trốn tới phường An Nhạc.
– Khi đó ta còn nhỏ tuổi, không nhớ kỹ lắm, tóm lại cuối cùng đã được ông nội truyền cho ngọc tỷ này. Trước khi lâm chung ông nội còn dặn dò ta, nhất định phải giao ngọc tỷ cho hậu nhân của nước Văn Cảnh, không thể xem là đồ vật nhà mình…
Nói đến đây, Lưu Can Tử uống một hớp rượu, ánh mắt ngơ ngẩn, than thở:
– Đứa con cháu bất tài ta, có lỗi với lời dặn dò lúc lâm chung của ông nội, cũng có lỗi với thái tử nước Văn Cảnh nghe đồn đã đổi họ lên núi tu đạo.
Môi của hắn run rẩy, trong mắt ngấn lệ, cầu xin:
– Công tử, ngài hãy giúp đỡ mua ngọc tỷ trọng bảo một nước này đi. Để sau này ta có thể mua rượu cầu say giả vờ hồ đồ, không cần mỗi ngày phải đối diện với nó, hổ thẹn đến chết.
Trần Bình An lại rót cho đối phương một chén rượu giếng nước tiên nhân màu hổ phách, lắc đầu nói:
– Rượu có thể mời ngươi uống, nhưng đồ thì ta sẽ không mua.
Lưu Can Tử vẫn chưa hết hi vọng, lại nói:
– Chẳng lẽ công tử không nhìn một chút sao? Đồ vật thật giả tốt xấu, tin rằng công tử có thể nhìn được rõ ràng, đến lúc đó cho dù công tử ép giá thì ta cũng không hối hận.
Trần Bình An vẫn lắc đầu, cười nói:
– Con người ta không có vận may phát tài… cho nên vẫn bỏ qua đi. Ngươi hãy tìm một người mua biết hàng và hữu duyên, đừng lãng phí thời gian với ta nữa.
Bùi Tiền đang định lên tiếng, lại bị Trần Bình An liếc mắt một cái, lập tức im lặng.
Lưu Can Tử đã uống xong chén rượu thứ hai, cáo lỗi và cảm ơn một tiếng, sau đó hồn bay phách lạc đứng dậy rời đi.
Lúc này Bùi Tiền mới nhỏ giọng nói:
– Thật đáng thương.
Trần Bình An uống rượu, nhẹ giọng nói:
– Đáng thương là thật, nhưng đồ vật chưa chắc là thật.
Bùi Tiền nghi hoặc nói:
– Còn chưa xem qua, làm sao biết được? Lỡ may là thật thì sao? Dù gì chúng ta cũng không vội lên đường.
Trần Bình An kiên nhẫn giải thích:
– Cái lỡ may này, nếu thật sự rơi vào đầu chúng ta, đương nhiên là kết quả tốt nhất. Vậy chúng ta hãy nói về kết quả xấu nhất.
Bùi Tiền không hiểu chuyện gì, hỏi:
– Kết quả xấu nhất chẳng phải là đồ giả, chúng ta nhìn lầm, bị tên kia lừa một ít tiền thần tiên sao?
Cô bé bỗng dùng hai tay vỗ bàn một cái, nói:
– Chuyện này không thể nhịn được!
Trần Bình An cười nói:
– Đây mà là kết quả xấu nhất cái gì? Tình huống xấu nhất là bị người ta gài bẫy, chẳng những bị ép mua ép bán, không chừng một khi chúng ta lấy tiền thần tiên ra, đối phương còn sẽ lòng tham không đáy, dứt khoát giết người cướp của. Chỉ nói đến người này, chúng ta vốn không quen biết, cho dù bản tính chưa chắc đã xấu, nhưng một khi gặp phải trắc trở không vượt qua được, chẳng hạn như thiếu một đống nợ, chó gấp còn phải nhảy tường, lúc ấy ai sẽ thương xót chúng ta?
Bùi Tiền dụng tâm ngẫm nghĩ, nói:
– Phe ta cũng có không ít người, dù sao chúng ta đã chiếm lý, hai ba quyền đánh chết bọn họ là được rồi.
Trần Bình An gõ đầu một cái, trách mắng:
– Đi ra bên ngoài, nếu chỉ dựa vào nắm tay để nói đạo lý, giống như Đỗ Mậu, chúng ta có thể sống được sao?
Bùi Tiền oán hận nói:
– Đỗ lão tặc không phải người tốt, kẻ ác sẽ bị trời đánh thánh đâm, sau khi chết xuống chảo dầu rút lưỡi moi tim, đổ nước sắt nung đỏ vào trong miệng…
Trần Bình An cắt ngang lời nói bậy bạ của Bùi Tiền, hỏi:
– Ngươi từ đâu biết những chuyện này?
Bùi Tiền nghĩ lại còn sợ nói:
– Lần trước tết nguyên tiêu xem đèn ở thành Lão Long, có một số đèn hoa bị Tiểu Bạch nói là “cảnh báo người đời, trấn ác hành thiện”. Khi đó ta mở to mắt nhìn một lát, cảm thấy không dính dáng nhiều đến mình. Nhưng trong sách nói “có lỗi thì sửa, không có thì tránh” mà.
Hôm nay trong hồ lô nuôi kiếm của Trần Bình An đã đựng rượu thuốc tiểu luyện, không thể chứa thêm rượu giếng nước tiên nhân đặc sản ở bến thuyền này, còn có không ít rượu hoa quế Phạm gia tặng đặt trong ngọc bài vật một thước. Thực ra một năm gần đây hắn cũng không thiếu rượu ngon, cho nên chỉ mua hai vò ở tiệm, dự định lát nữa để chung với rượu hoa quế. Đến núi Lạc Phách rồi sẽ chôn ở phía sau lầu trúc, cứ cách mười năm lại đào một vò lên, cũng coi là một trong số của cải phong phú của hắn.
Trần Bình An và Bùi Tiền đi đến lối ra của Giáp Phong Tiểu Đạo, bốn người Ngụy Tiện cũng lục tục chạy tới.
Chuyến này tới bến thuyền Phong Vĩ, Trần Bình An không gặp được đồ vật vừa nhìn đã thích. Hắn chỉ mua cho Bùi Tiền một quyển sách thánh hiền tranh chữ kết hợp, bản in rất đẹp, mỗi chữ đều tinh thần sung mãn, khí tức sung túc.
Lúc Trần Bình An định rời khỏi bến thuyền, lại có một người trẻ tuổi cầm bầu rượu trống từ trong ngõ đi ra, vóc người cường tráng, đeo một chiếc đai lưng giống như sợi xích bằng sắt tinh.
Trần Bình An lập tức híp mắt, nhưng rất nhanh lại khôi phục vẻ mặt bình thường, nghĩ thầm thêm một chuyện không bằng bớt một chuyện, bèn giả vờ không biết.
Không ngờ người nọ nhìn thấy Trần Bình An, liền bước nhanh tới trước, vươn ngón tay chỉ chỉ. Có lẽ hắn mang máng nhận ra Trần Bình An, nhưng không nhớ tên họ là gì, nhất thời vẻ mặt hơi nóng nảy.
Là phúc hay họa đều không tránh khỏi, Trần Bình An đành phải mỉm cười chào hỏi, dùng ngôn ngữ thông dụng Bảo Bình châu nói:
– Ở cổng trấn nhỏ kia, chúng ta đã gặp mặt một lần. Lúc ấy ta và người canh cổng đứng ở phía trong, còn ngươi đứng bên ngoài hàng rào. Trí nhớ của ngươi thật tốt, đã lâu như vậy vẫn có thể nhận ra ta.
Thanh niên cường tráng cười gật đầu, cảm thấy cao hứng, nói:
– Đúng, chính là ngươi. Ngoại trừ gã canh cổng kia, ngươi là người bản xứ trấn nhỏ đầu tiên mà ta nhìn thấy. Không ngờ có thể gặp được ngươi ở đây, lúc đầu ta còn không dám nhận, ngươi đúng là thay đổi quá nhiều. Ngươi nói ta trí nhớ tốt, ta cảm thấy ngươi cũng không kém, thậm chí còn tốt hơn ta một chút.
Thấy Trần Bình An cầm hai bầu rượu giếng nước tiên nhân, thanh niên dưới cằm đã mọc râu ngắn màu đen bèn cười nói:
– Rượu giếng nước này của ngươi mua lỗ rồi, rượu tiên nhân chính hiệu phải được ủ từ nước của ba cái giếng xưa nhất. Hai bầu này của ngươi là mua từ đám thương gia vô lương tâm, dùng nước của mười mấy cái giếng mới, mùi vị không đúng. Đi đi đi, ta dẫn ngươi đi mua rượu giếng nước cổ thật sự, nếu không ngươi tới bến thuyền Phong Vĩ này xem như uổng công một chuyến rồi.
Hắn vừa đi ra một bước, lại cười ha hả nói:
– Bỏ đi, giang hồ hiểm ác, hai ta cũng đừng thân cận.
Thanh niên cường tráng báo vị trí hai quán rượu cho Trần Bình An, sau đó nói:
– Muốn mua rượu thì tự mình đi, ta không muốn người khác cảm thấy khi không lại tỏ ra ân cần, tránh cho ngươi và ta đều thấp tha thấp thỏm.
Hắn ôm quyền từ biệt Trần Bình An, sải bước rời đi.
Là một người sảng khoái. Trong lòng Trần Bình An thở dài.
Sợi xích được thanh niên cường tráng dùng làm đai lưng, rõ ràng là sợi xích to lớn ở giếng Thiết Tỏa trước khi động tiên Ly Châu tan vỡ rơi xuống. Khi đó Trần Bình An nghe nói đối phương đã lấy đi cơ duyên lớn này.
Ngoại trừ những vật ngũ hành kia, trong số rất nhiều pháp bảo ẩn giấu ở nông thôn động tiên Ly Châu, sợi xích này và hồ lô xanh biếc của Tống Tập Tân, hồ lô Sơn Tiêu, còn có năm sáu món bao gồm quang minh trấn tà kính, đó là những thứ quý giá nhất. Trong đó sợi xích khóa rồng này là món có giá trị liên thành. Nó từng là một dây trói yêu đã thành công giam giữ một con chân long cuối cùng trên thế gian, có thể tưởng tượng cấp bậc cao thế nào.
Hôm nay nó đã bị người này luyện hóa thành vật bản mệnh, quang minh chính đại lộ ra trước mắt người khác. Đoán rằng đối phương là người tài cao gan lớn, hoặc là chỗ dựa đủ cứng, hoặc là có đủ cả hai.
Gặp cố nhân nơi đất khách, khiến suy nghĩ của Trần Bình An trở về trước kia, đó là lần đầu tiên hắn thật sự tiếp xúc với trời đất bên ngoài.
Con vượn Bàn Sơn núi Chính Dương, Thái Kim Giản núi Vân Hà, họ Hứa thành Thanh Phong, Phù Nam Hoa thành Lão Long.
Đó là cảnh ngộ sinh tử một trận tiếp một trận, là một đoạn năm tháng gian khổ nhất của Trần Bình An. Loại cảm giác không nơi nương tựa đó, còn lớn hơn năm tháng sau này của Trần Bình An, đối diện với lão giao long cảnh giới Nguyên Anh ở khe Giao Long, đối diện với Đỗ Mậu cảnh giới Phi Thăng ở thành Lão Long.
Có điều giống như Lư Bạch Tượng thổ lộ tiếng lòng trong viện nhỏ, trên đường nhân sinh, chỉ cần gặp được một đóa hoa ở nơi hoang vu, tất cả sẽ khác biệt.
Trần Bình An đã gặp được một cô nương tốt, nàng vừa cười lên, hắn liền cảm thấy mình giống như trở thành người giàu có nhất trên đời.
Làm sao có thể không thích? Làm sao có thể không để nàng trong lòng?
Lần cuối cùng uống rượu với Phạm Nhị trên nóc tiệm thuốc ở thành Lão Long, Trần Bình An nói:
– Cô nương mà ta thích, đã là người xinh đẹp nhất rồi. Nhưng xinh đẹp hơn nữa là lúc ta nhìn nàng, mà nàng lại giả vờ không biết, nghiêng mặt qua, lông mi hơi run rẩy.
Khi đó Phạm Nhị đã hơi say, bèn hỏi hắn, Trần Bình An ngươi con mẹ nó rốt cuộc thích cô nương kia đến mức nào vậy?
Lúc ấy Trần Bình An cũng uống hơi nhiều, chỉ nâng hồ lô nuôi kiếm cười ngây ngô.
Trần Bình An men theo tuyến đường đi tìm rượu giếng nước cổ thật sự. Thanh niên cường tráng không muốn chạm mặt lần nữa với người trẻ tuổi đã rời khỏi động tiên Ly Châu này, để tránh rước lấy nghi ngờ, bèn đi tới quán rượu nhà khác. Trên đường có một ông lão thần khí nội liễm lặng lẽ xuất hiện, đi tới bên cạnh thanh niên, nói một chuyện nhỏ.
Thanh niên vừa bực vừa buồn cười nói:
– Đám người này não úng nước rồi sao, đúng là cần tiền không cần mạng. Ông hãy chuyển lời cho người của quản sự, bảo bọn họ dừng tay, đừng dâng bữa ăn ngon cho người ta nữa.
Hắn vốn định nói thêm gì đó, mượn cơ hội này chỉnh đốn một chút tác phong bất chính của bến thuyền Phong Vĩ. Nhưng vừa nghĩ tới cuộc sống của tu sĩ tự do không dễ dàng, lại bất đắc dĩ lắc đầu nói:
– Cứ như vậy đi, cũng không cần cố gắng đả kích bọn họ, đều là vận may của bản thân. Nhưng đám người xứ khác mà ta vừa vô tình gặp được, không cho phép bất cứ ai ở bến thuyền Phong Vĩ trêu chọc. Còn nữa, nhân cơ hội này ông hãy lén đi giúp lão Lưu trả hết khoản nợ kia, dựa theo quy củ, bao nhiêu đồng thì trả bấy nhiêu. Sau đó hãy tìm cơ hội hù dọa lão Lưu một lần, bảo hắn đừng làm ma cờ bạc nữa, chút của cải hiện giờ đã đủ cho hắn sống thoải mái cả đời rồi.
Ông lão cẩn thận dò hỏi:
– Nếu sau này Lưu Can Tử không dừng tay được, lại đi đánh bạc thì sao?
Thanh niên cường tráng nói:
– Đó là do hắn tự chuốc lấy, ta giúp được một lần chứ không giúp được cả đời.
Ông lão muốn nói lại thôi.
Thanh niên cường tráng lắc đầu nói:
– Ngọc tỷ kia mặc dù là hàng thật giá thật, nhưng luyện khí sĩ bình thường không dính vào được. Sư phụ từng nói, đừng xem thường khí vận còn lại của một quốc gia bị diệt, phúc họa khó lường. Dù sao họ Tưởng nước Văn Cảnh vẫn còn một thái tử gia, hôm nay đang ở trên núi tu đạo.
– Còn cái gã một lòng một dạ muốn gom đủ mười bảy bảo vật của nước Văn Cảnh, vốn là đi theo con đường đỡ rồng, hắn thích hợp nhưng chúng ta thì không. Loại chuyện này nếu không kìm được lòng tham, sẽ thành người một đường với lão Lưu, không chừng còn kém hơn. Luyện khí sĩ chúng ta tu trường sinh vốn đã không chiếm lý, lại muốn đánh cược vận may với ông trời, chán sống rồi sao.
Ông lão phụng mệnh rời đi. Vị tùy tùng già yên lặng ẩn cư ở bến thuyền Phong Vĩ này, chính là tu sĩ cảnh giới Kim Đan lúc trước đã nhìn ra “khí thế” của Trần Bình An.
Thanh niên cường tráng vừa đi vừa thở vắn than dài, cho đến khi mua được bầu rượu, uống được rượu tiên nhân chính hiệu, tâm tình mới tốt hơn một chút.
Lúc còn nhỏ, bởi vì trưởng bối trong gia tộc đều nhận định hắn không thích hợp tu đạo, cho nên bị đám bạn cùng lứa trưởng thành sớm trong gia tộc coi là phế vật, chịu đủ khinh bỉ. Sau đó được một cao nhân vân du đi qua bờ biển nhìn trúng, nói với gia tộc tố chất của hắn rất tốt, muốn thu làm đệ tử. Cha mẹ vui vẻ đáp ứng, hắn còn nhỏ đã rời khỏi gia tộc, theo sư phụ lão nhân gia tới bến thuyền Phong Vĩ, cư ngụ ở cuối Giáp Phong Tiểu Đạo.
Những năm qua tu vi của hắn tăng tiến rất nhanh, cơ duyên cũng lấy được không ít. Có điều đối với gia tộc ăn trên ngồi trước, quy củ nghiêm ngặt, hắn không có ý định áo gấm về làng, nở mày nở mặt gì đó. Hắn chỉ muốn lén lút về nhà một chuyến, gặp mặt cha mẹ, báo đáp công ơn nuôi dưỡng là được.
Nhưng đối với người chị gái xuất thân từ dòng chính gia tộc, hắn vẫn luôn cảm ơn trong lòng. Cho nên dù sư phụ rất tiếc nuối, hắn vẫn khăng khăng đưa tặng vật nhỏ mà hắn vô tình lấy được, làm một trong số của hồi môn của cô. Nghe nói lúc cô nhận được vật này, cả gia tộc đều náo động không dám tin.
Làm người có thể không nợ tiền, không áy náy, hắn cảm thấy như vậy rất tốt.
Bà chủ của quán rượu này là một phu nhân tư sắc bình thường, trung thực an phận, trông coi nghề nghiệp tổ truyền và giếng nước cổ kia. Bà ta không biết làm ăn cho lắm, vốn là gia sản quý báu ngày kiếm đấu vàng, lại bị bà ta biến thành buôn bán nhỏ.
Nhiều năm trôi qua, tận mắt nhìn thấy vị đại tỷ tỷ tính tình ôn nhu dịu dàng nhà hàng xóm, được gả làm vợ người khác, quanh năm bán rượu, khóe mắt cũng dần dần xuất hiện nếp nhăn, thanh niên cường tráng rất vui mừng vì mình gặp được sư phụ. Không chừng một ngày nào đó cháu trai của bà chủ già rồi, dung mạo của mình vẫn như hiện giờ.
Bến thuyền Phong Vĩ tuy là bến thuyền tiên gia, nhưng có rất nhiều dân chúng bình thường không thoát khỏi sinh lão bệnh tử. Sư phụ luôn nói, những người dưới núi sáu mươi năm tóc bạc, bảy mươi đã hiếm hoi, mới là gốc rễ của một nhóm nhỏ người tu đạo trên núi.
Không có bọn họ, cái gọi là tu đạo chỉ như một lâu đài trên cát.
Thanh niên cường tráng không nghĩ quá nhiều về chuyện này, quả thật là lười nghĩ. Dù gì đối với tu hành, hắn vẫn luôn thích gặp sao yên vậy, không chủ động hại người, nếu bị người hại cũng sẽ không mềm lòng.
Cho nên sư phụ vẫn luôn khuyên hắn chọn một trong ba vị hoàng đế là họ Đường nước Thanh Loan, họ Hà nước Khánh Sơn, họ Nghiêm nước Vân Tiêu, sau đó mai danh ẩn tích, vào triều rèn luyện đạo tâm. Hốt thuốc đúng bệnh sớm một chút, hóa giải tâm ma, tránh khỏi tương lai một ngày nào đó bước vào cảnh giới Nguyên Anh, nước đến chân rồi mới nhảy. Nhưng hắn vẫn luôn từ chối không đi, từ sáng đến tối giao tiếp với đế vương tướng soái thì có gì thú vị?
Hoàng đế họ Đường tiêu xài phung phí, vô cùng sĩ diện, thích so đấu tài lực với thần tiên trên núi. Hoàng đế họ Hà nước Khánh Sơn lại thích những thứ kỳ quái, hậu cung có “ngũ mị” kinh hãi thế tục, trong ngoài triều đình chướng khí mù mịt.
Hoàng đế họ Ngiêm dã tâm bừng bừng, chăm lo việc nước nhưng lòng dạ độc ác, còn thích tính toán hơn cả con cháu thương gia. Nghe nói y tự mình biên soạn một bài “Tiền Bản Thảo” rất được ưa chuộng, nói rằng “tiền, vị ngọt, nóng bỏng, vừa độc vừa thuốc, có thể thông với thần linh, có thể sai khiến quỷ ma”, một lời vạch trần sách lược của thương nhân.
Hắn uống xong một bầu rượu rồi tính tiền, cột bầu rượu chứa mấy chục cân rượu giếng nước tiên nhân vào bên hông. Ngoài ra còn gọi thêm hai bầu rượu ngon nhỏ, dùng ngón tay kẹp hai bầu rượu nghênh ngang rời đi.
Phu nhân cũng không ngạc nhiên với chuyện này. Cả bến thuyền Phong Vĩ đều biết người thanh niên này thân phận không đơn giản, không ai dám trêu chọc hắn. Từ khi còn nhỏ hắn đã ở sâu trong con ngõ Giáp Phong Tiểu Đạo, cũng không bao giờ đụng chạm ai. Nghe nói hắn chỉ thay một người trông coi nửa con ngõ, thu tiền thuê mướn.
Người có thể thuê một ngôi nhà ở Giáp Phong Tiểu Đạo, nếu không phải tán tu tiên sư ví tiền căng phồng, cũng là tướng soái công khanh ba nước học làm sang. Còn lại là một số thế lực bản địa trực tiếp mua nhà, bọn họ rất kính trọng thanh niên đã lớn lên dưới mắt mình này.
Thanh niên cường tráng từ từ đi vào sâu trong con ngõ. Ở vị trí khu giữa con ngõ sau lưng hắn năm mươi bước, có hai ngôi nhà lớn trống không, cánh cửa đối diện nhau. Trên cửa chính dán môn thần vẽ màu mấy trăm năm không đổi nhưng vẫn mới tinh, bên tay trái là hai văn thần, bên tay phải là hai võ thần.
Lúc thanh niên đi qua hai ngôi nhà, mỗi tay ném ra một bầu rượu. Trái phải tổng cộng có bốn thần giữ cửa vẽ màu hào quang lấp lánh, từng người vươn một cánh tay màu vàng, tiếp lấy bầu rượu, thu về “trong cửa”. Sau đó trên bức tranh hai bên, trong tay thần giữ cửa văn võ đột nhiên có thêm một bầu rượu, uống xong rồi lại đưa bầu rượu cho đồng liêu gần đó.
Sau khi uống rượu xong, bốn thần giữ cửa vẽ màu lại khôi phục bình thường. Chỉ là ở phần râu của một vị võ tướng râu rậm, tờ giấy dường như hơi thấm ướt, nhưng rất nhanh lại khô ráo như ban đầu.
Thanh niên cường tráng trở lại ngôi nhà vắng vẻ, nhiều năm qua đều như vậy. Sư phụ lão nhân gia thích lang thang các nơi, trước kia mỗi lần đểu thề thốt, nói rằng nhất định phải tìm cho hắn một vị sư nương như hoa như ngọc trở về. Lần này ông ta cũng không phải chạy tới chỗ sư nương tương lai, có trời mới biết có phải còn ngủ say trong bụng mẹ hay không, mà là đi làm chính sự.
Nghe nói là một vị thần tiên năm cảnh giới cao sau khi binh giải, kim thân lưu ly có mấy phần rơi xuống lãnh thổ Bảo Bình châu. Nếu lấy được một mảnh trong đó sẽ phát tài lớn, xem như có vốn cưới vợ rồi. Vì chuyện này sư phụ còn tìm một hảo hữu chí giao giúp đỡ, nếu không chưa chắc đã tranh được với mấy lão rùa già tuổi tác xấp xỉ kia.
Thanh niên cường tráng cũng hơi băn khoăn, lo lắng một bảo bối quan trọng như vậy, bằng hữu của sư phụ liệu có thèm thuồng hay không.
Sư phụ cười lớn nói, mọi người ở Bảo Bình châu đều có thể làm vậy, nhưng lão rùa già tự xưng là Ngọc Diện Tiểu Lang Quân này chắc chắn sẽ không.
Người này mặc dù tính tình vừa cứng vừa thối, có thể so với đá trong hố xí, nhưng trên đường tu hành y lại được khen là “trong lòng không mờ ám”. Đời này vì nghĩa khí bằng hữu và vinh nhục tông môn, y đã hai lần tử chiến, hai lần bước vào cảnh giới Ngọc Phác lại rơi xuống cảnh giới Nguyên Anh. Phần khí khái anh hùng này, ngay cả cảnh giới Phi Thăng cũng chưa chắc có được.
Đại sư đúc kiếm Nguyễn Cung của miếu Phong Tuyết đã là thánh nhân Binh gia, năm xưa nổi tiếng là tính tình ngay thẳng. Ông ta từng tuyên bố, chỉ cần người này cần một thanh kiếm, ông ta chẳng những lập tức đúc thành, còn sẽ tự mình đưa tới ngọn núi.
Lần đầu tiên thấy sư phụ khẳng định như vậy, thanh niên cường tráng cũng yên tâm, nhất thời lại hơi tò mò về vị bằng hữu của sư phụ có danh hiệu khá “văn nhã độc đáo” kia.
Truyện Kiếm Lai được dịch tại Tàng Thư Viện.
– ——–
Sau khi Trần Bình An mua thêm hai bầu rượu tiên nhân giếng nước cổ, nhóm người đi tới một thắng cảnh du lịch ở cuối bến thuyền Phong Vĩ. Đó là một cây hạnh ngàn năm bóng mát che phủ mấy mẫu đất, dưới đáy đại thụ lại rỗng bụng, ném đầy tiền đồng và vàng bạc. Lúc trước người đàn ông đeo bọc vải tự xưng là Lưu Can Tử kia cũng có nhắc đến cây này.
Hoàng đế khai quốc họ Đường nước Thanh Loan, trước kia từng đặc cách ngự phong cây hạnh già này là cây đế vương. Sau đó hoàng đế nước Văn Cảnh không chịu thua kém, phái một vị quan lớn triều đình đặc biệt tới đây sắc phong, ước chừng giảm xuống một bậc, địa phương thường gọi là cây tể tướng. Cuối cùng hoàng đế nước Vân Tiêu cũng tham gia, phái một vị võ tướng chiến công hiển hách cưỡi ngựa tới đây, lập bia soạn văn, cho nên hôm nay dân chúng nước Vân Tiêu thường gọi nó là cây tướng quân.
Cây đế vương, cây tể tướng, cây tướng quân, một cây ba sắc phong, có thể nói là chuyện lạ.
Chỗ cây hạnh ngàn năm du khách không nhiều. Chỉ vào dịp lễ tết, dân chúng sinh trưởng ở bến thuyền mới tới đây ném tiền cầu phúc. Khách của bến thuyền Phong Vĩ phần nhiều là thương nhân trên núi quen cửa quen đường, không tin vào tập tục này, cũng không muốn tiêu tốn. Cho nên lúc này chỉ có nhóm người Trần Bình An, cùng với mấy nhóm trẻ con nông thôn cưỡi ngựa trúc nô đùa, nơi xa hơn lác đác vài đứa trẻ đang thả diều. Phía trên cành cao của cây hạnh còn treo mấy con diều xui xẻo bị đứt dây.
Trần Bình An xem qua cây hạnh linh khí nhàn nhạt lưu chuyển. Lúc định rời khỏi, lại phát hiện người hoa sen nhỏ từ dưới đất chui ra, đứng ở phần bụng rỗng giống như một cánh cửa lớn của cây hạnh, ló đầu nhìn vào.
Rất nhanh trong đống tiền lại có một cái đầu chui ra, đối diện với người hoa sen nhỏ. Nó bò ra khỏi đống tiền kia, thẳng lưng, hai tay chống nạnh đầy vẻ kiêu ngạo, nhưng làm sao cũng không giấu được sự tò mò và hớn hở trong mắt.
Đứa nhóc ăn mặc hoa lệ và khôi hài, mặc một bộ long bào màu vàng sáng nhỏ nhắn đáng yêu, bên hông đeo một thẻ ngọc bằng ngà voi, còn có một thanh đao vỏ làm bằng gỗ tử đàn.
Bùi Tiền kéo kéo tay áo Trần Bình An. Trần Bình An ngẫm nghĩ, lấy ra một đồng tiền hoa tuyết đưa cho cô bé, cười nói:
– Đi đi, nhớ nói chuyện đàng hoàng vị tiểu tiên nhân cây hạnh này, không được mạo phạm người ta.
Bùi Tiền nhanh chóng chạy tới, ngồi xuống trước “cửa nhỏ” cây hạnh.
Sau khoảng một nén nhang, Bùi Tiền tung tăng thắng lợi trở về. Trần Bình An dở khóc dở cười, không nói gì khác, khen thưởng bằng một cái gõ đầu.
Chỉ là lần này người hoa sen nhỏ lại đứng về phía Bùi Tiền, khoa tay múa chân, kêu lên ê a.
Bùi Tiền hơi chột dạ, ngoan ngoãn xoay người, muốn trả lại vốc đất trong tay và cây non nhỏ trắng nõn kia cho yêu tinh cây hạnh. Đáng tiếc vì chuyện này mà cô còn móc ra hai đồng tiền hoa tuyết, vụ mua bán này xem như lỗ rồi.
Người hoa sen nhỏ khá ngốc, còn không biết nói tiếng người. Vật nhỏ ăn mặc lòe loẹt kia lại khá thông minh, nói ngôn ngữ thông dụng Bảo Bình châu còn trôi chảy hơn Bùi Tiền. Lúc trước nó và người hoa sen nhỏ líu ríu tán gẫu cả buổi, Bùi Tiền nghe không hiểu. Sau đó người hoa sen nhỏ dùng tay gõ vào giày Bùi Tiền, đưa tay chỉ vào tiền hoa tuyết mà Bùi Tiền đang nắm chặt.
Tới tới lui lui, Bùi Tiền bắt đầu mặc cả với tiểu yêu cây hạnh kia, còn thuận tiện khoác lác với nó một trận, nói linh khí trong nhà mình dồi dào hơn nơi này rất nhiều, sền sệt giống như nước, chỉ cần một ngụm là có thể uống đến no căng.
Cuối cùng vật nhỏ dáng vẻ vụng về kia ưỡn ẹo, biến ra một cây non nhỏ trước mặt Bùi Tiền, bảo Bùi Tiền mang về quê nhà tìm một chỗ trồng xuống, nhất định đừng bạc đãi nó, mỗi ngày phải để nó uống no những linh khí như nước kia. Bùi Tiền ngoài miệng đáp ứng, vỗ ngực rung trời, nhưng thực ra đã sẵn sàng ăn gõ đầu đến no rồi.
Sau khi hiểu rõ chuyện đã xảy ra, Trần Bình An liền cầm đất đai và cây non trong tay Bùi Tiền, đi tới rễ cây ngồi xuống.
Vật nhỏ người mặc long bào, hông đeo thẻ ngọc và đao, đứng trong đống tiền, ánh mắt tràn đầy đề phòng cảnh giác.
Sau một phen hỏi đáp, Trần Bình An mới biết được chân tướng. Hóa ra nó sắp bước vào năm cảnh giới trung, nhưng linh khí nơi này không đủ. Nói chuẩn xác là nó không dám hấp thu quá nhiều linh khí, dù sao đây cũng là bến thuyền tiên gia nơi luyện khí sĩ tụ tập. Nó có thể cắm rễ tu hành ở đây, chỉ là dựa vào ba sắc phong không danh chính ngôn thuận kia.
Trần Bình An ngồi xổm xuống đất, cúi đầu nhìn yêu tinh hạnh cổ kia, cười hỏi:
– Sao không thương lượng với tiên sư ở bến thuyền Phong Vĩ này, làm cung phụng khách khanh gì đó, tìm một nơi Ngũ Nhạc ký kết khế ước sơn minh? Có thêm một vua núi năm cảnh giới trung không chạy đi đâu được, bọn họ chắc sẽ vui vẻ đúng không?
Đứa nhóc đặt mông ngồi trên đỉnh núi tiền, vẻ mặt lo lắng, cất giọng ngây thơ nói:
– Ta cũng muốn, nhưng cho dù những kẻ cả người đầy mùi tiền kia tin ta, ta cũng không tin được bọn họ. Bến thuyền Phong Vĩ tiếp giáp với ba nước Thanh Loan, Khánh Sơn và Vân Tiêu, mấy thế lực rắc rối phức tạp, không ai phục ai, chỉ vì tiền, dù có chuyện hay không cũng lén lút đánh cho đối phương vỡ đầu.
– Khế ước sơn minh, ngươi cảm thấy ta nên chọn Ngũ Nhạc nước nào? Cho dù ta chọn một nhà, hai nhà còn lại sẽ không hận chết ta sao? Không chừng một ngày nào đó sẽ lén lút tìm người chặt bản thể của ta làm củi đốt. Hôm nay mặc dù hương khói ảm đạm, một bữa no ba bữa đói, nhưng dù sao cũng không chết được. Luyện khí sĩ các ngươi không phải đều nói “chết tử tế không bằng sống tạm bợ” sao, ừm, còn có câu “đạo hữu chết bần đạo không chết”.
Trần Bình An xem như không nghe thấy câu cuối cùng, hoàn toàn đồng ý với lo lắng của đứa nhóc, hắn cũng lực bất tòng tâm với chuyện này.
Đứa nhóc đáng thương nói:
– Nghe cô bé đen nhẻm kia nói, nhà tiên sư ở một nơi giống như động tiên đất lành, hấp thu linh khí như người phàm uống nước. Nếu không ngại thì hãy giúp ta một tay, mang theo cây non này trở về, một khi sống sót sẽ có thể giúp tiên sư củng cố linh khí núi sông, đây là chuyện tốt đôi bên cùng có lợi. Những luyện khí sĩ bình thường, không nói thương gia trong mắt chỉ có tiền, chỉ nói nông gia và dược gia, có ai không xem đây phúc duyên từ trời rơi xuống? Vị tiên sư qua đường này, ngài nhất định phải quý trọng.
Trần Bình An đặt đất đai và cây non xuống, cười nói:
– Có phải còn muốn nói một câu, “trời cho không lấy sẽ bị trách tội”?
Đứa nhóc chán nản, gãi cằm nói:
– Hai đứa nhỏ dễ gạt gẫm, còn lớn như ngươi, kinh nghiệm giang hồ phong phú, quả nhiên không dễ lừa gạt.
Một khi Trần Bình An trồng cây non nhỏ này ở ngọn núi nhà mình, đúng là có thể giúp củng cố linh khí núi sông, nhưng cực kỳ hữu hạn. Phần nhiều vẫn là không ngừng đánh cắp linh khí cho cây tổ tông, cho nên chắc chắn là mua bán lỗ vốn, lợi không bằng hại.
Bởi vì trấn nhỏ quê nhà có cây hòe già, lúc trước ở đảo Quế Hoa, Trần Bình An tán gẫu với lão kiếm tu Mã Trí cung phụng Phạm gia, đã biết được một ít nội tình của yêu tinh cây cối.
Sau khi Trần Bình An trả lại đất đai và cây non, yêu tinh hoa hạnh kia còn xem như nói đạo lý, cũng trả lại hai đồng tiền hoa tuyết cho Bùi Tiền.
Người hoa sen nhỏ ủ rũ, Bùi Tiền cũng xấu hổ, hai đứa đều cảm thấy có lỗi với Trần Bình An.
Trần Bình An đặt người hoa sen nhỏ lên vai mình, dắt tay Bùi Tiền, nhẹ giọng cười nói:
– Các ngươi hổ thẹn cái gì, kẻ nên hổ thẹn là nó mới đúng.
Trong “cửa lớn” dưới đáy cây hạnh, yêu tinh hạnh cổ nằm trong núi tiền, ngáp một cái nói:
– Đành phải chờ tên ngốc tiếp theo mắc câu rồi.
Nó mơ màng ngủ đi, có một giấc mơ đẹp. Trong mơ nó thấy mình ở một ngọn núi lớn không ngừng tăng trưởng, cao vút tận mây, lớn lên thành một cây đại thụ chọc trời, mỗi chiếc lá hạnh đều tràn đầy ánh sáng màu vàng, mỗi cành cây đều được hương khói màu vàng hun đúc đến cô đọng, trở thành yêu tinh cây cối năm cảnh giới cao duy nhất của Bảo Bình châu… Trên cành cao của nó, có bóng dáng mơ hồ của hai người đang nhìn biển mây, một người ngẩng đầu uống rượu, một người bên hông đeo đao kiếm đan xen…
Sau khi tỉnh lại, đứa nhóc rất vui, cho dù chỉ là trong mơ, cũng đủ để nó vui vẻ rất nhiều năm rồi. Nhưng chẳng biết tại sao, nó vuốt mặt một cái, lại thấy mặt mình đầy nước mắt.
Nó ngơ ngác nằm trong đống tiền, trăm điều không thể lý giải, lại cảm thấy rầu rĩ như mất mát.
Bốn người trong tranh cuộn, dựa vào đồng tiền tiểu thử giá trị bằng trăm đồng tiền hoa tuyết, đều có thu hoạch riêng.
Chu Liễm vốn một thân một mình, lúc rời khỏi thành Lão Long, trên lưng đã đeo một cái bọc. Lần này rời khỏi bến thuyền Phong Vĩ, cái bọc càng nặng nề hơn. Hôm nay lão đã tự cho mình là người đọc sách, đương nhiên phải đeo hòm sách du học.
Bốn người vẫn đi bộ tới kinh sư nước Thanh Loan.
Trong ba nước xung quanh bến thuyền Phong Vĩ, nước Thanh Loan vào năm kia đã mở một thủy lục đạo trường thanh thế to lớn, do hoàng đế họ Đường tự mình thiết lập. Năm tiếp theo nước Vân Tiêu và nước Khánh Sơn giống như đấu võ đài, gần như đồng thời cử hành một đạo trường giải nạn, phân chia các lộ thần tiên Đạo gia gần như không còn, khiến cho nước Thanh Loan không kịp trở tay.
Thế là hoàng đế họ Đường không làm thì thôi, đã làm thì làm đến cùng. Chuẩn bị vào mùa xuân năm nay cử hành một trận Phật Đạo tranh luận, muốn chọn một trong Đạo gia và Phật môn trở thành quốc giáo của nước Thanh Loan, địa vị còn cao hơn Nho gia. Bên thua dĩ nhiên sẽ thành đá lót đường. Cho nên Trần Bình An tin tưởng, ít nhất vào mùa xuân năm nay, Trương Sơn Phong và Từ Viễn Hà vẫn sẽ ở lại kinh thành nước Thanh Loan.
Có lẽ là do ở gần bến thuyền Phong Vĩ, trong địa bàn có nhiều đạo quán chùa chiền, cùng với địa thế núi sông thuận lợi, ba nước gồm cả nước Thanh Loan đều không thuộc về “nơi vô pháp”, linh khí mỏng manh đến mức thiếu hụt. Linh khí ở đây dồi dào hơn nhiều so với nước Sơ Thủy mà Trần Bình An từng đi qua.
Khi đó Trần Bình An chỉ là một võ phu thuần túy, cảm xúc không sâu, chỉ có một cảm giác sơ sài. Hôm nay đã luyện hóa ấn chữ “Thủy” làm vật bản mệnh, có thể chậm rãi hấp thu linh khí, so sánh với nhau lập tức phát hiện sự huyền diệu trong đó.
Tại trung bộ Bảo Bình châu, trong mấy quốc gia mà Trần Bình An từng đi qua, vẫn là nước Thải Y linh khí nhiều hơn một chút.
Nhắc đến nước Thải Y, lá bùa trong vật một tấc của Trần Bình An còn chứa một nữ quỷ xương trắng, đã ký kết khế ước với hắn. Chỉ là Trần Bình An không thích cô ta, sau khi lên đảo Quế Hoa, cũng không để cô ta rời khỏi bùa chú kỳ quái kia.
Sau này đến núi Lạc Phách rồi thả nữ quỷ ra là được, có sơn thần trấn giữ sông núi xung quanh, tin rằng cũng có chấn nhiếp với cô ta.
Thần linh núi sông chính thống của vương triều Đại Ly, không phải bất kỳ vương triều nào ở Bảo Bình châu cũng có thể sánh ngang, thần linh Đại Ly dĩ nhiên cao hơn một bậc. Hiện giờ nửa lãnh thổ Bảo Bình châu đã là vật trong túi của họ Tống Đại Ly, chỉ thiếu được học cung Nho gia ở Trung Thổ Thần Châu gật đầu chấp nhận mà thôi. Cho nên suy đoán sau này, thần linh Đại Ly cũng sẽ chẳng khác gì thần linh Bảo Bình châu.
Lúc rời khỏi địa bàn bến thuyền Phong Vĩ, Trần Bình An phát hiện lữ khách từ bên ngoài đi vào, dù là luyện khí sĩ hay võ phu, đều cầm một bùa chú giấy vàng bán ở cửa lớn bến thuyền, giống như giấy thông hành của vương triều thế tục. Có nó rồi, khi đi vào sẽ xuất hiện một cánh cửa lớn gợn sóng để người ta đi qua. Khi rời khỏi bến thuyền Phong Vĩ thì không cần lá bùa qua cửa này.
Đây là một chuyện mới mẻ, Trần Bình An lần đầu tiên nhìn thấy, những bến thuyền khác đều không cần trả khoản phí qua đường này.
Sau khi đi ra cửa lớn, Trần Bình An hỏi thăm một người canh cửa là luyện khí sĩ cảnh giới thứ năm. Người nọ thấy Trần Bình An phong thái bất phàm, lại từ bến thuyền Phong Vĩ đi ra, bèn tươi cười giải thích cho hắn.
Hóa ra bến thuyền Phong Vĩ này có một trận pháp sông núi, do Âm Dương gia và cơ quan sư cùng nhau chế tạo. Địa tiên cảnh giới Kim Đan có thể trực tiếp đi vào, còn dưới cảnh giới Kim Đan phải cần một lá bùa qua cổng giá năm đồng tiền hoa tuyết. Một khi tùy tiện xông vào, sẽ kinh động đến người tuần tra ở bến thuyền. Còn lá bùa kia là nhánh phụ của bùa phá chướng, do bến thuyền Phong Vĩ thỉnh cầu tiên sư phái bùa chú, đặc biệt chế tạo cho trận pháp này.
Khi Trần Bình An hỏi thăm vì sao cổng ở nơi khác không cần bùa chú mở đường, luyện khí sĩ nở một nụ cười đầy thâm ý, đạp đạp xuống đất, hỏi nơi này là địa bàn của ai.
Trần Bình An lập tức tỉnh ngộ, phương hướng của cổng này là dẫn tới địa bàn nước Thanh Loan, vị hoàng đế họ Đường kia đúng là biết cách làm giàu.
Kinh thành nước Thanh Loan cách bến thuyền Phong Vĩ hơn một ngàn sáu trăm dặm, mà còn hơn hai tháng nữa mới diễn ra Phật Đạo tranh luận vào tiết cốc vũ, cho nên đi bộ tới cũng không sao.
Sau đó trên đường đi, bọn họ băng qua đạo quán chùa chiền lớn lớn nhỏ nhỏ, cả nhóm đều không xem là tin thờ Phật Đạo bao nhiêu. Trần Bình An và Bùi Tiền đều là mộ danh mà vào, cung kính thắp ba nén nhang, làm lễ với thần linh mà thôi.
Ngụy Tiện không tin chuyện này, bình thường đều đứng chờ ở cửa, không đi vào. Chu Liễm cũng không tin, chỉ đi theo Trần Bình An và Bùi Tiền một lần. Lư Bạch Tượng vào miếu thắp hương lạy Bồ Tát, vô cùng thành kính. Tùy Hữu Biên lại vào xem dâng hương, cũng khá thành tâm.
Trần Bình An nhắc nhở Bùi Tiền, thắp hương thì được, nhưng không thể tùy tiện cầu nguyện, càng không thể nhìn thấy các Bồ Tát thần tiên trong chùa chiền đạo quán, đều lần lượt dập đầu cầu nguyện.
Nhưng hắn cũng nói với Bùi Tiền, nếu một ngày nào đó trong lòng có cảm ứng, thật sự rất muốn cầu nguyện, vậy thì phải nghiêm túc. Còn phải nhớ kỹ nội dung cầu nguyện, cùng với dâng hương và quỳ lạy vị thần linh nào ở chùa quán nào. Một khi đạt thành nguyện vọng, sau này dù xa bao nhiêu cũng phải trở lại tạ ơn.
Thấy Trần Bình An nói rất nghiêm túc, Bùi Tiền cũng bị dọa không dám cầu nguyện, chỉ thắp hương mà thôi. Vừa nghĩ tới phải từ quận Long Tuyền chạy tới nước Thanh Loan để tạ ơn, cô cảm thấy mình không mệt chết thì cũng nửa đường hối hận xanh ruột, khóc đến gần chết.
Hơn nữa lúc đi vào dập đầu thắp hương, Trần Bình An còn có một quy củ, đó là tiền “dâng hương” không thể mượn người khác, phải tự mình bỏ ra.
May mắn trên đường đi, Trần Bình An nhiều lần bảo Bùi Tiền chạy việc vặt, tiểu nha đầu gầy gò đã kiếm được một ít bạc, sau khi đổi thành tiền đồng, đã đủ dâng hương ở đạo quán chùa chiền.
Bùi Tiền không cho rằng Trần Bình An keo kiệt mấy đồng tiền này. Cô càng ngày càng cảm thấy, Trần Bình An đã hào phóng với đại đệ tử khai sơn là cô hơn bốn người lão Ngụy nhiều.
Chuyện này khiến Bùi Tiền rất vui vẻ.
Tiết kinh trập, nhóm người Trần Bình An đi trong núi non hoang vu, thuộc địa bàn một huyện nhỏ ở nước Thanh Loan. Đột nhiên bọn họ cảm giác được đất rung núi chuyển, nơi xa cách đó hơn trăm dặm bụi đất tung bay, che trời phủ đất. Có một yêu vật to lớn đường nét mơ hồ, giống như đang rất đau đớn, ngửa mặt lên trời gào thét, nhất thời vô số chim nhỏ rừng núi rung cánh bay đi.
Trần Bình An ngẫm nghĩ, bảo Ngụy Tiện và Tùy Hữu Biên đi trước thăm dò, xem thử có tổn thương đến người vô tội hay không.
Hôm nay thương thế của hắn còn chưa hoàn toàn khỏi hẳn, lại phải cân nhắc nước lửa dung hòa giữa hồ nuôi dưỡng linh khí và một hơi chân khí thuần túy, tuy nói cảnh giới võ đạo thứ năm vẫn còn đó, nhưng thực lực thật sự chỉ có cảnh giới thứ tư.
Ngụy Tiện tay cầm giáp cam lộ Tây Nhạc, Tùy Hữu Biên lưng đeo Si Tâm kiếm, hai người công thủ đầy đủ, cho dù gặp phải nguy hiểm, tiếp ứng lẫn nhau, muốn an toàn rút lui cũng không khó.
Trần Bình An không cố gắng đi nhanh hơn. Sau khi Tùy Hữu Biên và Ngụy Tiện trở về, nói rằng địa chấn là do một đám tu sĩ sông núi, không biết làm sao tìm được một con trâu đất ẩn nấp ở đây mấy trăm năm, muốn vây giết nó để lấy thiên tài địa bảo trên người.
Nhưng bọn họ lại bị hai người nhiều chuyện ngăn cản, một người là đạo sĩ trẻ tuổi dùng kiếm gỗ đào, một người là đại hán râu rậm cầm đao. Hai bên không thương lượng được với nhau, đã giao chiến rồi. Thực lực hai bên cách xa, bên vây giết không chịu bỏ qua, trong đó còn có một tu sĩ cảnh giới Kim Đan tự mình chủ trì đại cục, kết cục không hề bất ngờ.
Trần Bình An vỗ hồ lô nuôi kiếm một cái, phi kiếm Mùng Một và Mười Lăm lướt ra. Hắn giẫm lên phi kiếm, giống như tiên nhân ngự gió vội vàng lướt đi.
Bốn người trong tranh cuộn đưa mắt nhìn nhau.
Bùi Tiền cầm gậy leo núi nhìn xung quanh, không hiểu chuyện gì.
Sau đó Tùy Hữu Biên nhoáng lên rồi biến mất. Chu Liễm cười ha hả, cũng lướt theo sau, đồng thời kêu lên:
– Lại có đánh nhau, sảng khoái.
Ngụy Tiện cõng Bùi Tiền, Lư Bạch Tượng yên lặng theo sau.
Mọi người đều cảm thấy khó hiểu, vì sao Trần Bình An lại thất thố như thế? Chẳng lẽ có người quen ở đó?
Nhưng Trần Bình An đến từ ngõ Nê Bình ở động tiên Ly Châu, cho dù là người quen, không phải đều là loại người như Trịnh Đại Phong võ phu cảnh giới thứ chín, đại tông sư Lý Nhị cảnh giới thứ mười, kiếm tiên Tào Hi, thiên quân Tạ Thực sao?
Quê nhà của Trần Bình An, rồng nằm hổ phục đến mức không nói lý.
Cho dù ngày nào đó đột nhiên chui ra một lão quái vật cảnh giới Phi Thăng, bốn người trong tranh cuộn cũng sẽ không quá kinh ngạc. Nhưng nếu đột nhiên xuất hiện một “tiểu nhân vật” năm cảnh giới trung gì đó, nói mình là bạn của Trần Bình An, bốn người bọn họ ngược lại sẽ không thích ứng.
Mặc dù có hai thanh phi kiếm giúp đỡ, nhưng Trần Bình An vẫn còn thương tích trên người, một hơi chân khí thuần túy lại có phần trở ngại, cho nên tốc độ chỉ ngang với nhóm người Tùy Hữu Biên dưới đất.
Trong một khe núi lớn có vô số đá vụn, một con trâu đất màu vàng bị trọng thương buộc phải hiện ra chân thân, nằm trong vũng máu. Trước người nó là đạo sĩ trẻ tuổi và hào hiệp râu rậm cực kỳ nhếch nhác, hai người tựa lưng vào nhau. Xung quanh là hơn hai mươi tên luyện khí sĩ, giống như bầy sói rình mò.
Dưới con mắt mọi người, một người trẻ tuổi không biết là ngự gió hay ngự kiếm bay đến, một bộ áo trắng xuất trần giống như thần tiên. Chỉ thấy vị tiên sư áo trắng kia bồng bềnh đáp xuống đất, sau đó nhẹ nhàng bước ra năm sáu bước, đi tới trước mặt hai người kia, tươi cười giơ hai tay về phía bọn họ.
Đao khách râu rậm ngẩn người, không dám tin, đạo nhân trẻ tuổi càng dụi dụi mắt, sau đó trong mắt hai người hiện lên ý cười.
Đạo sĩ trẻ tuổi và hào hiệp râu rậm, mỗi người vươn một tay ra, vỗ tay với vị tiên sư trẻ tuổi kia. Vẻ mặt bọn họ không còn suy sụp, thần thái rạng rỡ, vô cùng thoải mái.
Trần Bình An nhìn hai người, tại khoảnh khắc này ánh mắt của hắn dường như còn sáng hơn cặp mắt ẩn chứa nhật nguyệt của Bùi Tiền. Hắn cầm tay hai vị bằng hữu, cười lớn nói:
– Ta biết mà, trên đời chỉ có hai bằng hữu của ta, Trương Sơn Phong và Từ Viễn Hà, mới chịu làm loại chuyện tốn sức mà không có kết quả này.