Là một trong những địa điểm tham quan ai cũng nên trải nghiệm khi đặt chân đến Budapest, Thành Ngư Phủ mang vẻ đẹp rất khó hình dung chỉ bằng ngôn từ.
Đứng ở tòa thành ngự trên mỏm núi cao chót vót tại Buda ngắm nhìn sông Danube và Pest bên kia bờ đẹp hơn khung cảnh nơi đài quan sát ngôi giáo đường Thánh Stephen nhiều lần. Trên thực tế, đây chỉ từng là một pháo đài được các ngư dân xây dựng để phòng ngự thời Trung Cổ, nó đã bị tàn phá gần như toàn bộ trong thế chiến thứ hai. Mà bây giờ, trải qua cuộc đại trùng tu và cải tạo Thành Ngư Phủ đã trở thành thánh địa của Budapest, thậm chí là cả Hungary.
Nhìn thấy cậu thanh niên cầm bó hoa tươi tặng cho người đẹp đi cùng rồi nhận về một cái hôn nồng nhiệt, Thẩm Thiêm rốt cuộc cũng chịu tin lời đồn chính bản thân tự bịa ra để kể cho Tần Tranh —— Trong tất cả những nụ hôn đầu tại Budapest, thành lũy này đã chiếm đến quá nửa.
Hôm nay bầu trời xanh trong ngập nắng, đa số du khách dừng chân dưới mái hiên thưởng thức cảnh đẹp, dưới bức tượng hoàng đế màu xanh đồng lác đác vài người tụ họp chiêm ngưỡng. Trái ngược với đông đảo du khách trong trạng thái phấn khởi, Tần Tranh khoanh tay trước ngực đứng ở hành lang đá im ắng ngắm cảnh tỏ ra chán chường mất hứng.
Câu chuyện tệ rồi đây.
Thẩm Thiêm mãi mới nhớ ra trách nhiệm “dỗ Tần Tranh vui” xốc lại tinh thần, nói với hắn: “Em thấy mấy bức tượng chim trên đường không?”
Thẩm Thiêm tận tình giới thiệu lịch sử ngàn năm tuổi hấp dẫn với người bàn đồng hành.
“Đó là chim Turul, là loài chim thần mà tổ tiên người Hungary thờ phụng. Người Hung vốn là dân du mục, chim Turul để lại chiếc kiếm thần ở đây, và Budapest trở thành quê hương của họ.”
“Rất thú vị.” Tần Tranh đáp.
“Tôi cũng thấy thế.” Thẩm Thiêm gật gù: “Nhất là hồi mới biết lúc coi Youtube đêm qua.”
Tần Tranh nghiêng mặt nhìn sang, mỉm cười không phụ sợ mong đời của Thẩm Thiêm.
Bạn khó lòng tưởng tượng được một người mất ngủ có thể làm bao nhiêu chuyện trong suốt một đêm. Sau khi tìm tòi lịch trình du lịch ở Budapest xong, Thẩm Thiêm còn lôi cả máy tính bảng trong ngăn kéo ra chơi game âm nhạc.
“Phải rồi, em cũng biết đánh piano đúng không?” Anh thình lình nhớ ra.
Tần Tranh gật nhẹ: “Đứa trẻ nhà có tiền nào ở Yến Thành cũng biết.”
Giờ thì đến lượt Thẩm Thiêm cười.
Anh biết Tần Tranh không hề khoe khoang lố, vì khái niệm “có tiền” của cậu tổng đây chắc phải khác xa “có tiền” của người bình thường.
“Em là cậu ấm đỉnh nhất tôi từng biết.”
“Cảm ơn anh.”
Tần Tranh lịch thiệp nhận câu lấy lòng chân thành nọ, ngẫm nghĩ một lúc rồi bổ sung: “Nhưng tôi không phải người hạng nhất tôi từng gặp.”
“Ồ?” Thẩm Thiêm hơi ngạc nhiên: “Có ai khiến em phải đánh giá cao vậy ư?”
Tần Tranh lại cùng anh rảo bước trên những bậc thang nhấp nhô của tòa thành, đều đều trả lời: “Con trai nhà ngoại giao kia từ hội họa, âm nhạc, ngôn ngữ, đến cả cưỡi ngựa, đấu kiếm, chơi cờ không gì cậu ta không biết. Tôi không quen cậu ta, chỉ từng gặp mặt ở một buổi tiệc của người lớn. Cậu ta nhỏ hơn tôi một chút nhưng ăn nói rất khéo léo, tôi cũng thấy được cậu ta hoàn toàn thản nhiên chấp nhận kiểu giáo dục không khác nào bồi dưỡng người kế vị ngai vàng của cha cậu ta. Khác với tôi nhiều.”
Thẩm Thiêm nghe say sưa: “Rồi?”
“Rồi, cha cậu ta ngồi tù, mẹ tái hôn. Cậu ta một thân một mình nuôi em gái mắc bệnh tự kỷ không thể chạy chữa, hoàn toàn biến mất khỏi giới “có tiền ở Yến Thành”.”
Hắn thuật lại rất đơn giản, nhưng hai câu nói ngắn ngủi này chứa đựng rất nhiều câu chuyện.
Cuộc đời này lắm những đứa trẻ gặp phải tai ương, cả hai may mắn được đi trên con đường bẳng phẳng. Song sự thật là, bất chấp xã hội, lịch sử và nền văn minh này diễn tiến ra sao, nhân loại vẫn đang sống trong một thế giới chỉ tôn trọng áo quần bên ngoài chứ không phải con người.
Nhưng dù thế giới có bạc tình bạc nghĩa với con người cách mấy, khi đứa trẻ dần trưởng thành, nó vẫn có thể biến những đau khổ vượt xa tưởng tượng của người bình thường bản thân đã chịu đựng năm mười mấy tuổi trở nên sức mạnh và động lực nội sinh. Cậu ta từ một tác phẩm nghệ thuật xuất chúng bị nung chảy thành sắt lỏng, rồi lại đông đặc thành thứ vật chất tầm thường mang lấy sự cứng cỏi, ẩn nấp tứ phương nhưng tồn tại bền bỉ dài lâu.
“Nghe có vẻ là người lương thiện.” Thẩm Thiêm phụ họa.
Tần Tranh thoáng khựng bước.
Hắn ngoái đầu nhìn Thẩm Thiêm, đáy mắt mang vẻ chịu đựng hắn cố ý để lộ: “Cậu ta vẫn chưa đầy hai mươi tuổi.”
Thẩm Thiêm đã xấu xa cười ngả trái nghiêng phải trong bụng từ nãy đến giờ, song ngoài mặt vẫn tỏ ra chẳng biết phải làm sao đây: “Nhưng đã là người lớn rồi mà? Tôi thích mấy bạn nhỏ vừa in tuổi hợp pháp ấy.”
Anh còn thích kiểu dễ đọc vị hơn đấy.
Hô biến ảo thuật, Tần Tranh lấy que kem từ sau lưng ra, quơ quơ trước mặt anh: “Bạn nhỏ làm sao mua kem giải khát được cho anh.”
“Còn chưa biết à nha.” Thẩm Thiêm cười nhảy xuống bậc thang, nhận nửa que Tần Tranh tách cho mình: “Không biết bạn nhỏ này kiếm bất ngờ ở đâu ra thế?”
Vị sô cô la và dâu tây.
Sô cô la của Thẩm Thiêm, dâu của Tần Tranh.
Trên đường đi xuống, Thẩm Thiêm cắn que kem đã sắp chảy nước, gợi điểm đến tiếp theo của hai người.
“Em biết vì sao hội nhóm đó lại chọn họp mặt vào hôm nay không?”
Tần Tranh: “Không biết.”
Thẩm Thiêm: “Vì ngày 23 tháng 4 là ngày quốc tế đọc sách, nhưng hôm nay lại là ngày 1 tháng 4.”
Tần Tranh ra sức giữ bình tĩnh phát ra một âm tiết: “Ừ?”
Thẩm Thiêm cười càng tươi rói: “Tôi muốn nói, ngày cá tháng tư vui vẻ, Tần Tranh!”
“Tôi rất vui.” Tần Tranh nhẹ giọng đáp.
Du khánh tốp năm tốp ba lướt qua họ, Tần Tranh tự nhiên nắm chặt tay Thẩm Thiêm, phòng khi người này không nhìn đường lăn từ đỉnh pháo đài xuống đường ray xe lửa trên sông Danube.
Khả năng thích nghi của Thẩm Thiêm rất mạnh mẽ, da mặt phải nói là tường đồng vách sắt. Giờ Tần Tranh có ôm anh giữa đường anh cũng chẳng thấy xấu hổ, nhiều khi anh còn tựa vào vai Tần Tranh, hôn gió chào mấy người qua đường để ý ngó xem.
Hình ảnh nọ đúng là be bét cực độ, may mà Tần Tranh chỉ chạm rồi thôi, giờ này hai người cũng chỉ tay nắm tay, xuôi theo con dốc đến chỗ đi cáp treo.
Nói thế nào nhỉ, một đôi tình nhân rất bình thường.
“Bà ngoại tôi có học quốc tế ngữ.”
Trong cáp treo, Thẩm Thiêm lại phổ cập tri thức cho Tần Tranh.
Từ “Esperanto” trong ngôn ngữ quốc tế vốn mang nghĩa “người đang hy vọng”, nói lên niềm hy vọng vào tương lai tươi đẹp của nhân loại. Theo các tài liệu bách khoa toàn thư liên quan, năm 1887, trên cơ sở ngữ hệ Ấn – Âu, bác sĩ nhãn khoa người Ba Lan gốc Do Thái Ludwik Lejzer Zamenhof đã sáng tạo nên ngôn ngữ này, nhằm giúp mọi người vượt qua giới hạn ngôn ngữ, màu da, chủng tộc, xứ sở, trở thành những công dân thế giới chung sống bình đẳng với nhau trong cùng một thân phận.
Thế nhưng Thẩm Thiêm lại nhận định: “Cơ mà, tôi thấy thủ ngữ mới là ngôn ngữ quốc tế.”
Tần Tranh bất đồng ý kiến: “Thủ ngữ cũng có khác biệt giữa các địa phương và lãnh thổ quốc gia.”
“Tôi biết.” Khóe môi Thẩm Thiêm cong cong, “Nhưng thầy thủ ngữ của tôi nói, khi thầy đưa các học trò câm điếc ra nước ngoài giao lưu trao đổi, mọi người đều giao tiếp với sinh viên người bản địa rất thuận lợi, hoàn toàn không có rào cản gì. Kỳ diệu lắm phải không? Dù số phận khiến họ mất khi khả năng lắng nghe và giọng nói, nhưng hóa ra họ lại nhận được khả năng giao tiếp với toàn thế giới bằng một cách thức khác.”
Khi diễn giải chữ Thiêm trong ngôn ngữ ký hiệu, dường như kiểu gì Thẩm Thiêm cũng luôn diễn giải mọi điều đã được định nghĩa sẵn bằng thành khái niệm hoàn toàn mới.
Tần Tranh không hỏi vì Thẩm Thiêm vì sao đang yên đang lành lại đi học thủ ngữ. Mà sự thật là cũng không có gì đáng để hỏi ——ngôn ngữ ký hiệu cũng là một loại ngôn ngữ, học nó đơn giản là vì muốn giao tiếp với một người hay một nhóm người nào đó, thậm chí là như Thẩm Thiêm nói, giao tiếp với toàn thế giới.
Hoặc là, Tần Tranh nghĩ, khả năng cao hơn Thẩm Thiêm chỉ rảnh hơi muốn có chức năng “lúc nhàm nhàm ngồi coi tin tức còn biết đường kiểm tra thử người phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu dưới góc trái màn hình có chính xác không”.
“Em không hỏi vì sao tôi học thủ ngữ à?”
Thẩm Thiêm hỏi hắn.
Tần Tranh hùa theo: “Vì sao anh học thủ ngữ?”
Thẩm Thiêm đắc ý chớp chớp mắt, trả lời y hệt không lệch một chữ: “Lúc nhàm nhàm ngồi coi tin tức còn biết đường kiểm tra thử người phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu dưới góc trái màn hình có chính xác không.”
“…”
Tần Tranh cụp mi mắt, bật cười.
“Em cười cái gì?” Thẩm Thiêm hỏi: “Mặc dù ý định của tôi chỉ là trêu em chọc em cười thôi, nhưng sao tôi có cảm giác em không cười vì trò đùa của tôi?”
“Anh đoán xem?” Tần Tranh bình chân như vại.
“Tôi đoán —— ” Thẩm Thiêm ê a kéo dài, bình thản trả lời: “Vì em đã đoán được trước câu đùa của tôi.”
Cáp treo đến trạm, trước khi đi xuống, Tần Tranh khom người ghé bên tai Thẩm Thiêm, gật đầu thì thầm: “Anh đoán đúng.”
Giọng êm ái vô cùng, nếu hắn không cố ý thủ thỉ bên tai phải vẫn đang nhạy cảm sưng tấy lên chắc còn hay hơn.
Đồ nhóc con khó chịu.
Thẩm Thiêm thầm oán nhét ngón tay vào lòng bàn tay Tần Tranh nhảy xuống cáp treo, chào đón cả hai là tiếng gọi đầy mềm mại.
Hình như có hơi quen quen.
Thẩm Thiêm và Tần Tranh cùng lúc nghiêng đầu, bất ngờ nhìn thấy cô gái mình gặp trên tàu ở đài ngắm trăng.
Thẩm Tuế vẫn mặc chiếc đầm trắng, đội mũ che nắng, tươi cười giơ máy ảnh trong tay.
“Là anh à!”
Là tôi đó.
Thẩm Thiêm cười, chào cô nàng bằng quốc tế ngữ: “Bonjour, chica.” (Chào em, cô gái.)
Tác giả có lời muốn nói:
Thích cách gọi “cô gái” bên ngôn ngữ phương Tây quá.
Và, đúng vậy, cậu công tử nghèo mạt mà Tần Tranh nhắc đến chính là Khương Địch trong 心要野, lúc này cậu ấy đang học năm nhất đại học. Câu “nóng chảy rồi đông đặc” nói về cậu ấy đến từ bình luận của một bạn độc giả, Khương Địch và tôi rất thích.
Editor có lời muốn nói:
Khương Địch là công của cp phụ trong truyện 心要野 (tên tại Wikidich: Tâm Muốn Dã) của tác giả trên Trường Bội, nếu hứng thú mọi người ghé xem nhen ~