Lão Tổ Lại Đang Luân Hồi - Thanh Điểu Độ Tinh Hà

Chương 56



Lữ Hách Minh và Yến Vương Văn Nhân Dư Bách ở thế giới thứ nhất có chút giống nhau, vì thế Bạch Kỳ mới sẵn lòng đối xử với hắn đặc biệt hơn chút.

Thời gian đối với Bạch Kỳ không có ý nghĩa gì lớn. Y đã gặp rất nhiều người nhưng chẳng nhớ rõ được mấy ai, lâu dần con người tự nhiên trở nên lạnh nhạt.

Giờ Bạch Kỳ có thể cùng người xưng huynh gọi đệ, nhưng một trăm năm rồi một ngàn năm sau, ký ức sớm muộn sẽ phai nhạt dần tan biến theo thời gian.

Tuy Lữ Hách Minh líu ríu rất ồn ào nhưng hắn cũng là người thông minh, biết cân nhắc thời cơ, biết tiến biết lùi.

“Anh nếm thử xem.” Lữ Hách Minh ân cần đẩy một đĩa bánh đến trước mặt Bạch Kỳ.

“Bánh hoa, đặc sản của Nhất Thành Hương.”

Mười lăm miếng bánh xếp gọn gàng trong ba đĩa sứ trắng nhỏ, màu sắc và hoa văn in trên bánh đều khác nhau, hương vị mỗi miếng cũng rất đặc biệt.

Bạch Kỳ nhón một miếng định nếm thử thì một giọng nói đột nhiên ngăn lại.

“A Họa.”

Bạch Kỳ quay đầu lại, chỉ thấy Chu Phi Dận cũng đã xuống lầu đang chậm rãi tiến lại gần.

“Chu tiên sinh.” Lữ Hách Minh đứng dậy, lúng túng chào hỏi.

Chu Phi Dận liếc nhìn Lữ Hách Minh một cái, tuy chỉ là ánh mắt bình thường nhưng Lữ Hách Minh lại cảm thấy lạnh sống lưng.

“Ngươi xuống làm gì?” Bạch Kỳ hỏi, tay vẫn đưa miếng bánh hoa lên miệng.

Chu Phi Dận đặt một tay lên cánh tay Bạch Kỳ, ngăn y lại.

“Em mãi không trở về, tôi lo lắng cho em.”

Ý định của Chu Phi Dận quá rõ ràng, Bạch Kỳ chế nhạo liếc nhìn anh một cái, tiện tay lại đặt miếng bánh hoa trở lại đĩa.

“Tôi tình cờ gặp anh Hoạ nên trò chuyện một chút.” Lữ Hách Minh khô khan giải thích.

“Nhà họ Lữ gần đây thuận buồm xuôi gió quá nhỉ.” Chu Phi Dận lạnh nhạt nói một câu mơ hồ.

Lữ Hách Minh giật mình, giọng nói cũng cao lên, “Không!! Nhà tôi nhiều việc lắm!”

“Anh Hoạ, gần đây tôi định tiếp quản một số việc của công ty, có lẽ sắp tới sẽ không thường xuyên liên lạc với anh được!”

Nhìn Lữ Hách Minh chạy xa, Bạch Kỳ đỡ trán cười to.

“Tâm phòng người là không thể thiếu, sau này em ít qua lại với cậu ta.” Chu Phi Dận nói như ra lệnh.

“Ghen rồi?” Bạch Kỳ cười hỏi.

Chu Phi Dận im lặng.

“Không cần quá đề phòng cậu ta đào góc tường của ngươi, ồn ào quá không thích hợp làm người yêu.”

“Tôi không ghen.” Chu Phi Dận cứng nhắc nói.

“Nói một đằng nghĩ một nẻo.”

Gần đây thành phố C có chút không yên ổn, chuyện phân chia nhà họ Đỗ gây náo động khắp thành phố, liên lụy không ít người.

Đỗ tam gia đã quyết tâm phân gia. Dù cho nhà họ Đỗ có không đồng ý thì cũng chẳng ai có thể đấu lại ông.

Một gia tộc lớn như vậy trong chốc lát phân rã, tan tành, kết cục khiến vô số người thở dài tiếc nuối.

Tại sảnh chính nhà họ Chu, Đỗ tam gia và Đỗ Thiệu Huy ngồi dưới, Khâu Lễ Hải và Bạch Nhược chậm rãi trải bức “Phong Sơn Thu Cảnh Vân Quy Đồ” trước mặt Chu Phi Dận.

Chu Phi Dận xem kỹ rồi xác nhận thật giả, sau đó bảo Khâu Lễ Hải thu lại bức tranh.

Thực ra dù Chu Phi Dận không kiểm tra, Đỗ tam gia đang “có việc cầu người” cũng không có gan dùng tranh giả lừa anh, chỉ là liên quan đến Bạch Kỳ nên anh không thể không cẩn trọng.

“Ngày mùng chín tháng này tôi sẽ đến mộ tổ Đỗ gia lần nữa.” Sau khi nhận “thù lao”, Chu Phi Dận báo thời gian cho 2 người.

Chu Phi Dận luôn giữ chữ tín, bất cứ việc gì anh hứa đều sẽ thực hiện.

Nhận được lời hứa của Chu Phi Dận, Đỗ tam gia thở phào nhẹ nhõm: “Cảm ơn Chu tiên sinh.”

Gần đây Đỗ gia loạn trong giặc ngoài khiến Đỗ tam gia bạc trắng tóc, ông mới ngoài năm mươi mà trông như đã sáu bảy mươi tuổi.

Nhận được bức “Phong Sơn Thu Cảnh Vân Quy Đồ”, Chu Phi Dận đối mặt với “người ngoài” hiếm khi nói nhiều một câu, “Lấy lợi trừ hại, không phá thì không xây được.”

Đỗ tam gia nghe vậy cười chua chát, “Chu tiên sinh cũng cho rằng quyết định của tôi là đúng?”

“Nếu ông cho rằng mình sai thì sao còn làm?” Chu Phi Dận hỏi lại.

“Nhà họ Đỗ đã không thể gắng gượng nữa rồi.” Bên ngoài chèn ép, nội bộ thối nát, giờ đây nhà họ Đỗ như một cây cổ thụ ngoài xanh trong khô.

“Một thuyền khó chở được nhiều người, cực thịnh tất suy, huống chi đã hơn hai ngàn năm, Đỗ gia hưng thịnh đủ lâu rồi.” Chu Phi Dận nói.

Chu Phi Dận tùy tay ném ra một tấm gỗ, Đỗ tam gia bắt lấy, chỉ thấy trên đó viết “Tiện thanh sơn hữu tư, bạch hạc vong cơ”(1).

“Đây là…” Đỗ tam gia không hiểu.

“Tái ông mất ngựa(2), biết đâu là phúc? Huống chi ở trên cao khó tránh khỏi cảnh lòng người lạnh lẽo, không bằng bỏ thói kiêu ngạo, nóng vội rồi bình tĩnh lại.”

“Tôi thay ông gieo một quẻ, khổ tận cam lai, vận may sắp tới.”

Mắt Đỗ tam gia lóe lên niềm vui, “Tạ ơn Chu tiên sinh chỉ giáo!”

Chu Phi Dận vội đi gặp Bạch Kỳ, không muốn nói chuyện nhiều với hai người.

Khi rời đi, Chu Phi Dận liếc nhìn Đỗ Thiệu Huy khí thế nội liễm, “Cậu không tệ.”

Đỗ Thiệu Huy ngẩn ra, sau đó cung kính gật đầu, “Cảm ơn Chu tiên sinh khen ngợi.”

Chu Phi Dận trở về phòng của mình. Vừa bước đến cửa, cửa phòng ngủ chính đã được mở ra từ bên trong.

“Tranh đâu?” Bạch Kỳ hỏi.

Chu Phi Dận “…” Người không bằng tranh, có chút buồn bã.

Chu Phi Dận đưa hộp tranh, Bạch Kỳ nhận lấy rồi “phịch” một tiếng đóng sập cửa lại.

“…” Chu Phi Dận bị chặn ngoài cửa.

Chu Phi Dận ngồi ở cửa một lúc, cuối cùng tự mình đẩy cửa “không mời mà vào”.

Trên bàn viết, Bạch Kỳ trải bức tranh, từng tấc từng tấc cẩn thận ngắm nhìn, một lần nữa trong lòng tán thưởng tài năng hội hoạ của Cố Họa.

Nhìn tranh biết người, từ bức Phong Sơn Thu Cảnh Vân Quy Đồ này có thể thấy được tính cách của Cố Họa khi đó, tuy cao ngạo nhưng không thiếu đi sự tinh tế, khao khát bầu trời rộng lớn và tự do bên ngoài.

“Đừng khóc.” Một bàn tay nhẹ nhàng nắm lấy tay Bạch Kỳ.

Bạch Kỳ từ sự bi thương trong ý thức của nguyên chủ tỉnh lại, sau đó phản bác, “Ta là quỷ mà.”

Quỷ tất nhiên không khóc được, chỉ là lúc nãy mắt y đỏ hoe, vẻ đau buồn trên mặt làm Chu Phi Dận càng thêm xót xa.

“Cảm ơn.” Bạch Kỳ nói lời cảm ơn.

Mặc dù quá trình lấy được bức Phong Sơn Thu Cảnh Vân Quy Đồ từng bước đều nằm trong kế hoạch của Bạch Kỳ, nhưng nếu không có sự giúp đỡ của Chu Phi Dận, chỉ sợ cũng không được thuận lợi như vậy.

“Cảm ơn thế nào?” Chu Phi Dận hỏi.

Lời nói rõ ràng có ý đồ của Chu Phi Dận khiến Bạch Kỳ hơi nhướng mày, “Ngươi muốn ta cảm ơn thế nào?”

“Đền đáp bằng cả cuộc đời, không quá đáng chứ?”

Bạch Kỳ “…” Câu này sao cứ quen quen.

Hắc Thất ha ha cười, đời trước anh ta cũng từng trêu chọc Tần Văn Lan như vậy, không quen mới lạ.

Bạch Kỳ cúi người đối mặt với Chu Phi Dận, nheo mắt nhìn anh ta một cách khó hiểu.

“Có nhiều cách để đền đáp bằng cả cuộc đời, ngươi nói là cách nào?”

Chu Phi Dận nhìn sâu vào Bạch Kỳ, sự quyến luyến đắm say trong mắt phảng phất như dệt thành tấm lưới nhốt y vào trong đó.

“Chúng ta kết hôn đi?” Chu Phi Dận nói.

Bạch Kỳ “…”

“Úi chà chà, cậu bạn này dũng cảm đấy, lá gan cứ phải gọi là gấp đôi gấp ba so với 2 thế giới trước luôn.” Hắc Thất vừa xem kịch vừa khẽ suýt xoa.

“Lấy tôi làm sính, lấy cây Hoàng Tuyền làm lễ, từ nay mọi thứ của tôi đều thuộc về em.” Chu Phi Dận tỏ tình.

“Nếu ta từ chối thì sao?” Bạch Kỳ vẫn tìm đường chết như thường.

Chu Phi Dận im lặng.

Bạch Kỳ trêu chọc khoác tay lên vai anh, một ngón tay nhẹ nhàng chọc chọc lên môi Chu Phi Dận.

“Nếu ngươi muốn một nghi thức thì chúng ta kết hôn đi.”

“!!!” Chu Phi Dận.

Bạch Kỳ đã sống như một lão quái vật, trước khi phi thăng cũng từng có một người yêu, nhưng kết hôn thì đây là lần đầu tiên.

Hơn nữa ở Đại Lục Diệu Hoang, tu sĩ ở bên nhau gọi là song tu hoặc kết khế, tu sĩ bình thường trao đổi tín vật coi như là sống chung, còn những người có quyền thế thì tổ chức một đại lễ kết khế trước mặt mọi người.

Còn về việc kết hôn theo phong tục người phàm… Bạch Kỳ cảm thấy cũng khá thú vị, có chút mong chờ.

Tại nhà họ Lữ, Lữ gia chủ đang ngồi trong thư phòng xem tin tức gần đây của nhà họ Đỗ, biểu cảm vui vẻ rõ ràng.

Họ Đỗ phân gia, không nghi ngờ gì việc Đỗ tam gia là người chiếm phần lớn số tài sản, kế đó là Đỗ tứ gia.

“Nếu chúng ta thừa thắng xông lên, nhà họ Đỗ tuyệt đối không còn cơ hội trở mình.” Lữ Hách Minh nói.

“Không cần.” Lữ gia chủ đáp.

“Hả?” Lữ Hách Minh sững sờ không hiểu ý của cha mình.

“Đỗ tam gia không phải người hiền lành gì, tính cách hung ác của ông ta ai cũng biết.”

“Nhưng Đỗ gia đã sắp sụp đổ rồi mà cha.”

“Một con sói ác bị dồn đến đường cùng, khi phản công cũng sẽ rất nguy hiểm.” Lữ gia chủ nói.

“Thế đợt trước Đỗ gia hại cha như vậy, chúng ta cứ bỏ qua sao?” Lữ Hách Minh không hài lòng với sự “nhu nhược” của cha mình.

“Đó là do Đỗ tứ gia làm, đừng ụp nồi lung tung, ụp nhầm sẽ gây hoạ đấy.” Lữ gia chủ lườm Lữ Hách Minh nói.

“Mối thù với nhà họ Đỗ tất nhiên phải trả, nhưng hiện giờ họ đã phân gia, mỗi chuyện phải xử lý riêng, đừng liên lụy người vô tội.”

Lữ Hách Minh nhăn mặt, cái gì mà vô tội? Rốt cuộc chẳng phải là cha muốn tha cho Đỗ tam gia sao.

Lữ gia chủ nhìn thấy sự bất mãn của Lữ Hách Minh, thở dài một tiếng “trẻ người non dạ”.

“Hách Minh, con phải nhớ rằng, lạc đà gầy còn lớn hơn ngựa, đừng bao giờ ỷ vào ưu thế mà coi thường bất cứ ai.”

“Đỗ tam gia không phải là người đơn giản, người kế thừa của ông ta, Đỗ Thiệu Huy cũng không phải là người tầm thường.”

“Bây giờ con không diệt cỏ tận gốc, không sợ sau này họ sẽ trả thù sao?” Lữ Hách Minh hỏi.

“Nếu Đỗ tam gia là người thù dai, cha nhất định sẽ không ngần ngại giết ông ta.”

“Nhưng cha hiểu Đỗ tam gia, ông ta tuy hung ác, có thù tất báo, nhưng cũng là người có ân tất trả, nếu chúng ta giúp đỡ khi ông ta đang gặp khó khăn, ông ta sẽ ghi nhớ ân tình của nhà họ Lữ.”

“Hách Minh, chuyện tương lai không ai nói trước được, hôm nay là nhà họ Đỗ thì ngày mai cũng có thể là nhà họ Lữ.”

Lữ gia chủ ngưỡng mộ Đỗ tam gia, vì vậy mới muốn kết thân với nhà họ Đỗ, chỉ là hôn ước đó cuối cùng lại bị Đỗ tứ gia phá hỏng.

Lữ Hách Minh nghe ra ẩn ý trong lời nói của cha mình, lập tức đề phòng, “Cha đừng mơ lại bán con đi!”

“Con căng thẳng gì chứ?” Lữ gia chủ mỉm cười hỏi.

“Cha, cha nói thật đi, giữa cha và Đỗ tam gia có bí mật gì không thể nói ra đúng không?”

Đầu tiên là liên hôn, giờ lại muốn tha cho Đỗ tam gia, trông có vẻ rất kỳ quặc.

Lữ gia chủ khẽ ho một tiếng rồi uống một ngụm trà để làm dịu cổ họng, “Người sống trên giang hồ, sẽ luôn gặp một hai người tri kỉ nhưng lại kết bái nhầm một anh em.”

Lữ Hách Minh “…”

“Ba và Đỗ tam gia là anh em kết nghĩa!?” Lữ Hách Minh kêu lên kinh ngạc.

“Suỵt!” Lữ gia chủ nghiêm mặt ra hiệu.

“Cha… cha… Con nói rồi, nhà họ Đỗ và nhà họ Lữ đã không hòa hợp qua nhiều thế hệ, làm sao cha lại đột nhiên muốn con kết hôn với Đỗ Hiểu Hiểu chứ!?”

“Ban đầu chúng ta không biết thân phận của nhau, đến khi biết thì hai người đã cân đoạn nghĩa tuyệt, chia tay trong đau khổ.”

“Không ai tin đâu.” Lữ Hách Minh hừ lạnh.

“Với khả năng của Đỗ tam gia và Đỗ Thiệu Huy, hai người hợp sức, không chừng ngày đó sẽ đông sơn tái khởi…”

“Dù ông ta có tái xuất ở đâu đi nữa, con cũng không cưới Đỗ Hiểu Hiểu về nhà!” Lữ Hách Minh nói.

Lữ gia chủ “…” Con trai ông có phải tưởng tượng quá nhiều rồi không? Ông có nói là để nó cưới Đỗ Hiểu Hiểu đâu?

Có lẽ để cho cha mình thấy được quyết tâm của mình, Lữ Hách Minh thề thốt, “Con thà sống độc thân cả đời còn hơn cưới loại phụ nữ đó.”

“Thà cưới Đỗ Thiệu Huy còn hơn, ít nhất nhìn cũng thuận mắt.”

“Hay đấy.” Gia chủ nhà họ Lữ đột nhiên xen vào, “Đỗ Thiệu Huy là người kế thừa của Đỗ tam gia, con cưới anh ta về chẳng phải là nắm trong tay cả nhà họ Đỗ sao.”

“Ừ… có lẽ phải tìm thời gian nói chuyện với Đỗ tam gia.”

Lữ Hách Minh “…” Thật muốn “thí phụ” quá mà. (*g.i.ế.t cha)

Note:

(1) “Tiện thanh sơn hữu tư, bạch hạc vong cơ”《羡青山有思,白鹤忘机》là câu thơ được trích từ bài thơ “Bát thanh cam châu: Trích thanh mai tiến tửu” 《八声甘州·摘青梅荐酒》của nhà thơ《汤恢》thời Nam Tống (tên nhà thơ là gì mình không biết:)))

Raw:

摘青梅荐酒,甚残寒,犹怯苎萝衣。正柳腴花瘦,绿云冉冉,红雪霏霏。隔屋秦筝依约,谁品春词?回首繁华梦,流水斜晖。

寄隐孤山山下,但一瓢饮水,深掩苔扉。羡青山有思,白鹤忘机。怅年华、不禁搔首,又天涯、弹泪送春归。销魂远,千山啼鴂,十里荼麋

Hán việt:

Trích thanh mai tiến tửu, thậm tàn hàn, do khiếp trữ la y.

Chính liễu du hoa sấu, lục vân nhiễm nhiễm, hồng tuyết phi phi.

Cách ốc Tần tranh y ước, thuỳ phẩm xuân từ?

Hồi thủ phồn hoa mộng, lưu thuỷ tà huy.

Ký ẩn cô sơn sơn hạ, đãn nhất tiêu ẩm thuỷ, thâm yểm đài phi.

Tiện thanh sơn hữu tư, bạch hạc vong ky.

Trướng niên hoa, bất cấm tao thủ, hựu thiên nha, đàn lệ tống xuân quy.

Tiêu hồn viễn, thiên sơn đề quyết, thập lý đồ mì.

Giải nghĩa:

Hái mận xanh tiến rượu, trời vẫn còn lạnh, mặc áo gai vẫn còn e sợ cái lạnh.

Cành liễu mập mạp, hoa thưa thớt, mây xanh lượn lờ, tuyết đỏ rơi dày.

Cách bức tường nghe tiếng đàn Tần lấp ló, ai đang ngâm bài thơ xuân?

Nhìn lại giấc mộng phồn hoa, dòng nước chảy xiên qua ánh chiều tà.

Gửi gắm nỗi niềm nơi chân núi Cô Sơn, chỉ với một bầu nước uống, cánh cửa phủ đầy rêu sâu kín.

Ngưỡng mộ ngọn núi xanh, con hạc trắng quên đi mọi toan tính.

Cảm thương năm tháng trôi qua, không thể không xoa đầu suy nghĩ, lại phải tiễn biệt mùa xuân về nơi xa xăm với những giọt nước mắt.

Xa xăm tiêu hồn, giữa ngàn núi tiếng chim kêu, mười dặm đường đầy hoa mi hương ngát.

Lý giải:

Qua bài thơ, tác giả đã gửi gắm hết những khát vọng, nhiệt huyết và hoài bão tuổi trẻ của bản thân vào mùa xuân. Ông vừa giống như một ẩn sĩ, lại vừa không giống như một người hoàn toàn xa lánh thế tục. Sống một cuộc sống êm đềm bên thiên nhiên núi rừng như vậy, ông đang cảm thấy mình lãng phí cuộc đời, lãng phí ước mơ của mình. Thanh xuân cũng ông cũng đang vội vã trôi đi giống như mùa xuân vậy.

Cụm “Tiện thanh sơn hữu tư”  thể hiện sự ngưỡng mộ của tác giả đối với ngọn núi xanh, như thể nó có tình cảm, suy tư như con người. Đây có thể là một cách nhân cách hóa thiên nhiên để phản ánh nỗi lòng của tác giả, thể hiện sự đồng cảm của ông với thiên nhiên vĩnh cửu và tĩnh lặng, đối lập với sự biến đổi không ngừng của cuộc đời. “Bạch hạc vong cơ” có nghĩa là quên đi những mưu toan, lo lắng, những tính toán trong đời sống thường ngày. Hạc trắng quên đi sự đời, sống tự do tự tại, không bị ràng buộc bởi những phiền não trần gian. Điều này phản ánh khát vọng của tác giả muốn tìm về một cuộc sống bình yên, an nhiên, tránh xa những toan tính và thị phi của thế tục.

Câu thơ này thể hiện sự ngưỡng mộ của tác giả đối với những ẩn sĩ thực thụ, những người đã đạt đến cảnh giới tự do, vô ưu vô lo, và phản ánh mong muốn được sống hòa hợp với thiên nhiên, thoát khỏi những ràng buộc của cuộc sống thế gian.

(Mình lý giải dựa trên những gì mình tìm kiếm và hiểu ý bài thơ, mọi thứ đều có thể sai sót, mong mọi người thông cảm)

(2) “Tái ông mất ngựa” là một thành ngữ trong văn hóa Trung Quốc, mang ý nghĩa rằng trong mỗi điều không may có thể ẩn chứa điều may mắn, và ngược lại.

Thành ngữ này bắt nguồn từ một câu chuyện cổ sau:

Ở một vùng biên giới Trung Quốc, có một ông lão tên là Tái Ông sống cùng con trai. Một ngày nọ, con ngựa của ông chạy mất. Hàng xóm đến chia buồn, nhưng ông lão bình tĩnh nói: “Biết đâu đây lại là điều may.” Quả nhiên, vài ngày sau, con ngựa trở về, dẫn theo một con ngựa hoang khác. Hàng xóm lại đến chúc mừng, nhưng Tái Ông vẫn điềm nhiên: “Biết đâu đây lại là điều rủi.”

Sau đó, con trai ông cưỡi con ngựa hoang và bị ngã, gãy chân. Hàng xóm lại đến an ủi, nhưng Tái Ông nói: “Biết đâu đây lại là điều may.” Quả nhiên, không lâu sau, quân đội đến tuyển binh, nhưng vì chân bị gãy, con trai ông không phải đi lính, thoát khỏi nguy hiểm.


Mẹo: Bạn có thể sử dụng Trái, Phải, phím A và D để tới các chương.