Lúc lên triều, Nguyên Hồng triệu kiến tướng địch bị bắt.
Năm đó sau khi Hoàn Doãn đánh hạ Kiến Khang đã có cử chỉ quảng nạp hiền sĩ Giang Nam, cũng rất được ca tụng, Nguyên Hồng không muốn bị lạc hậu, ngồi ngay ngắn trên điện vàng, mặt tỏ vẻ vô cùng ôn hòa, ai bằng lòng đầu hàng ngay tại chỗ thì ban thưởng một chức quan võ, cởi gông xiềng, ai không chịu thì đưa trở lại về ngục. Chỉ khi đối mặt với Tiết Hoàn mới hơi chần chừ.
Khi được dẫn ra khỏi Trung quân phủ, Tiết Hoàn đã rửa ráy qua, tuy tinh cảnh ngộ sa sút nhưng cũng xem như sạch sẽ. Lúc hắn đi lên điện, trong triều thần nổi lên một trận hỗn loạn nhỏ – đa phần mọi người đều chẳng xa lạ gì với hắn, trong quá khứ còn từng có mối giao hảo nâng ly cạn chén.
Đàn Đạo Nhất đã bóng gió riêng với Nguyên Hồng về lai lịch của Tiết Hoàn, trước mặt quần thần, Nguyên Hồn không tùy tiện mở miệng. Vì rất tò mò về Hoàn Doãn, Nguyên Hồng không khỏi quan sát Tiết Hoàn hồi lâu, sau đó quay sang hỏi Đàn Đạo Nhất: “Hoàn Doãn trông như thế này à?”
Đàn Đạo Nhất liếc thoáng Tiết Hoàn, “Cũng giống mấy phần.”
“Ngẩng mặt lên.” Nguyên Hồng nhìn chưa đã, ra lệnh cho Tiết Hoàn.
Tiết Hoàn bình tĩnh ngẩng đầu, ánh mắt lơ đãng lướt qua các triều thần, lập tức khiến mọi người trợn mắt lên trừng, còn có triều thần kích động nói: “Người này liên tục gây họa cho triều ta, tội ác tày trời, nên xử tử ngay lập tức.”
Nguyên Hồng vươn tay, ngăn cản làn sóng công phẫn của triều thần. Cậu còn nhỏ tuổi nhưng đã rất có uy. Thở dài có phần tiếc nuối, Nguyên Hồng nói: “Đáng tiếc, nếu bắt được Hoàn Doãn thật thì tốt.” Cậu ngồi ngay ngắn trên ngựa tọa, bất mãn hỏi Tiết Hoàn: “Tiên hoàng đối xử không bạc với ngươi, sao ngươi lại có thể phản chủ bội nghĩa, cấu kết địch quốc, khiến ngàn vạn bách tính Kiến Khang lâm nạn?”
Tiết Hoàn không cho là đúng, “Bệ hạ, lúc Phàn Đăng còn chưa dẫn quân xuống Nam, bách tính Kiến Khang đã kêu khổ thấu trời vì tiên đế tàn bạo. Lúc đó bệ hạ bị cầm tù ở chùa Thiên Bảo, có lẽ không chứng kiến rõ bằng tôi.”
Nguyên Hồng trầm mặc thoáng chốc rồi ngạo nghễ ngẩng đầu, nói: “Chuyện quá vãng thôi khỏi nhắc lại, ngươi xem quân chủ như ta đây, chẳng lẽ không xứng để ngươi bỏ tối theo sáng ư?”
Tiết Hoàn phản vấn: “Bệ hạ muốn tôi từ nay rời bỏ quê nhà, sau cùng chôn xương tại tha hương sao?”
“Chẳng lẽ ngươi còn có lựa chọn khác?” Nguyên Hồng lắc đầu, “Ta nghe nói ngươi ở Lạc Dương lẻ loi một mình, không có vướng bận.”
Tiết Hoàn bị Nguyên Hồng hỏi mà câm lặng, hắn giật giật khóe miệng, cười khổ nói: “Nhờ thái phó ban tặng, thần bây giờ lẻ loi cô đơn, không có vướng bận.”
Nguyên Hồng nghe hắn tự xưng là thần, lập tức mở cờ trong bụng, hào phóng nói: “Kiến Khang chúng ta có vô số mĩ nhân tài đức vẹn toàn, hoàn toàn có thể sánh đôi cùng nhân vật anh hùng như tướng quân!”
“Cảm tạ nhã ý của bệ hạ,” Tiết Hoàn tươi cười nhìn Đàn Đạo Nhất, “Thần đã sớm được nghe, mĩ nhân tài mạo song toàn nhất Kiến Khang đang ở ngay trong phủ thái phó,” Thấy sắc mặt Đàn Đạo Nhất thoắt lạnh xuống, Tiết Hoàn càng đắc ý hơn, trong mắt đong đầy chế nhạo, “Hồi trước trong dạ tiệc trên thuyền hoa, chính miệng thái phó đã nói, Lạc Dương đất đai cằn cỗi, nữ nhân xấu xí, rửa chân cho thái phó cũng không xứng. Thần là kẻ thô tục, không mắt cao hơn đầu được như thái phó, nếu Tạ phu nhân diễm lệ, không biết có thể cảm phiền tay ngọc của nàng rửa chân cho thần không?”
“Càn rỡ!” Nguyên Hồng đột ngột biến sắc, không đợi Đàn Đạo Nhất cất tiếng đã gầm lên quát Tiết Hoàn dừng lại.
Biểu cảm các triều thần khác thường, đến Nguyên Hồng cũng cảm thấy lúng túng sâu sắc, không dám nhìn sắc mặt Đàn Đạo Nhất, cậu xua tay với Tiết Hoàn, nói: “Ngươi ăn nói quàng xiên, nếu khăng khăng không hàng thì dẫn xuống đi!”
Tiết Hoàn hỏi: “Bệ hạ không hiếu kì về tung tích quốc tỉ sao?”
Nguyên Hồng kích động nhảy dựng khỏi ngự tọa, nhìn Tiết Hoàn chằm chằm, “Ta nhớ ra rồi, lúc thành Kiến Khang bị phá, ngươi là thống lĩnh cấm vệ trong cung…”
Tiết Hoàn mỉm cười nhìn Đàn Đạo Nhất, hắn cũng rất cố chấp: “Tạ phu nhân diễm lệ, vẫn rất xứng rửa chân cho tôi.”
Không đợi Nguyên Hồng nói gì thêm, Đàn Đạo Nhất quả quyết nói: “Giải xuống đi.”
Tiết Hoàn bị giải đi, ngay sau đó quần thần cũng lui ra, Nguyên Hồng quan sát sắc mặt Đàn Đạo Nhất, mở miệng thăm dò: “Thái phó, tung tích quốc tỉ can hệ trọng đại…”
Dẫu có giao tình cũ với Nguyên Hồng, giờ khắc này, Đàn Đạo Nhất cũng không tránh được lạnh lùng ngắt lời Nguyên Hồng, “Không có quốc tỉ, chẳng lẽ bệ hạ không có lòng tin đánh bại Hoàn Doãn, giành lại non sông?”
“Ta tin!” Nguyên Hồng nghiêm mặt nói, “Nhưng…”
Đàn Đạo Nhất cười lạnh, “Hắn chỉ muốn mượn cơ hội vũ nhục thần mà thôi, chẳng lẽ bệ hạ cho rằng hắn thực sự biết tung tích quốc tỉ? Nếu hắn biết thì khi trước đã sớm dâng cho Hoàn Doãn tranh công rồi.”
Trong lòng Nguyên Hồng ngập tràn băn khoăn về tung tích quốc tỉ, nghe vậy đăm chiêu nhìn về phía Đàn Đạo Nhất, “Thái phó, Hàn Tín còn chịu được nhục chui háng1, sao thái phó lại phải tranh thể diện với một tù nhân như hắn?” Cậu hơi phản đói, “Chẳng lẽ hắn lại thực sự không biết ngại mà gây khó dễ một nữ tử khuê các như Tạ phu nhân?”
1 Một sự tích về thời trẻ tuổi của Hàn Tín, đọc thêm tại .
“Vì bệ hạ, thần khúm núm trước mặt Hoàn Doãn, bao nhiêu nhục nhã cũng đã chịu rồi,” Đàn Đạo Nhất kiềm chế lửa giận trong lòng, “Nhưng thần không tin hắn thật lòng thần phục.”
Nguyên Hồng không biết nói gì thêm, hồi lâu sau, lại bảo: “Ta chỉ cảm thấy… Với thân phận của phu nhân, đương nhiên là không thỏa đáng, đổi lại là tì thiếp thì cũng được…”
“Thần cáo lui.” Đàn Đạo Nhất lãnh đạm nói. Nguyên Hồng hậm hực đứng dậy, nhìn bóng lưng chàng rời đi.
Trở lại Đàn phủ, Đàn Đạo Nhất không nhắc đến chuyện này, nhưng những lời xằng bậy trêu ghẹo Tạ phu nhân của Tiết Hoàn vẫn nhanh chóng lan truyền khắp Kiến Khang. Sau mấy ngày yên lặng liên tiếp, Tạ thị không nhịn được, nói với Đàn Đạo Nhất: “Trung quân phủ nhiều thị vệ, hắn có thể làm gì thiếp chứ? Nếu vì chuyện này mà bệ hạ nảy sinh hiềm khích với lang quân thì chẳng phải trúng gian kế của hắn sao?” Nàng ta hiểu rất rõ đại nghĩa, “Miễn là lang quân biết lòng thiếp, thực ra thiếp cũng không để ý người khác nói gì…”
Đàn Đạo Nhất đang ngồi đối diện với bóng trúc um tùm ngoài cửa sổ lau trường kiếm, mấy ngày mưa dầm vừa trôi qua, thành Kiến Khang trời xanh như gột, cổ tay Đàn Đạo Nhất rung nhẹ, lưỡi kiếm vang tiếng ông ông như rồng gầm dưới thinh không. Nghĩ đến cuộc chiến sắp tới với Hòn Doãn, Tạ thị không khỏi hãi hùng khiếp vía, lại thấy Đàn Đạo Nhất tra kiếm vào vỏ, xoay người mỉm cười với mình: “Nàng tưởng người hắn muốn gặp là nàng à?”
Chàng trước nay rất lễ độ kính trọng nàng ta, hiếm khi nào dùng giọng điệu giễu cợt như vậy. Tạ thị đỏ bừng mặt, có gia nô đi tới, nói bệ hạ mời lang quân tiến cung yết kiến. Đàn Đạo Nhất lạnh lùng liếc gia nô, nói với Tạ thị: “Nàng bảo Như Như đi gặp hắn đi.”
Hiển nhiên Đàn Đạo Nhất vẫn bênh vực chính thất phu nhân nàng ta. Tạ thị lấy làm mừng thầm, ân cần hầu chàng thay quan bào, tiễn đến cổng phủ. Đàn Đạo Nhất xoay người lên ngựa, kéo dây cương, nghe thấy bên kia tường ngăn của Hoa Nùng biệt viện có tiếng chim kêu chiêm chiếp, còn có giọng A Na Côi lảnh lót, “Ấy, mi cũng bị nhốt ở đây à, mi đáng thương quá.”
Nàng thà lẩm bẩm với họa mi trong lồng cũng không chịu nói chuyện với chàng.
Tạ thị đi sang Hoa Nùng biệt viện, thấy A Na Côi ngồi trên lan can, tựa vào cột trụ hành lang ngẩn người. Nàng vẫn mặc bộ áo vàng váy trắng kia, là vệt sáng duy nhất trong sân đình trống vắng, lồng chim lại trống rỗng, họa mi bên trong không thấy tăm hơi.
Tạ thị đứng đằng xa nhìn A Na Côi một hồi, bỗng cảm thấy Đàn Đạo Nhất thật đáng thương.
Chàng thật sự lưu luyến người con gái mất hết thanh danh này, hay là cảm thấy chỉ khi có nàng ở đây, Đàn phủ mới là Đàn phủ của quá khứ?
Tạ thị không nói rõ với A Na Côi nội tình, chỉ bảo Đàn Đạo Nhất lệnh nàng đến Trung quân phủ. Trên đường đi, A Na Côi còn đang ngơ ngác, đến ngoài phủ rồi không chịu bước tiếp nữa, nàng cảnh giác hỏi: “Trong này có ai?”
Thị vệ tốt bụng nhắc nhở nàng: “Quân địch giảo hoạt, nương tử phải cẩn thận.”
“Quân địch?” A Na Côi thì thào, tim tức khắc ngừng đập, đứng sững ngoài ngưỡng cửa chốc lát, được thị vệ gọi hai tiếng, nàng như choàng tỉnh khỏi giấc chiêm bao, không kịp sửa sang dung nhan mình, rảo chân đi vào, vấp phải ngưỡng cửa suýt ngã chúi, nàng lỡ miệng “á” một tiếng, mắt chạm mắt với Tiết Hoàn bên trong.
Sau tiếng kêu kinh hãi đó, hai người hồi lâu bất động. Tiếng bước chân lộp cộp của thị vệ bên ngoài hết gần lại xa. A Na Côi như đang nằm mơ, chớp mắt một cái thật mạnh, động tác có phần ngớ ngẩn này khiến Tiết Hoàn buồn cười, hắn hắng giọng, nhướng mày nói: “Rốt cuộc chẳng phải vẫn thành nô tì rửa chân của ta đó thôi?”
A Na Côi nào biết Tiết Hoàn từng dùng lời này khiêu khích Đàn Đạo Nhất trên thuyền hoa, chỉ cảm thấy câu này không đầu không đuôi. Nụ cười phởn phơ kia thật là chói mắt, nàng quay mặt sang chỗ khác, nguýt một tiếng gắt gỏng, nói: “Đồ nam nhân vô dụng, sắp mất vợ tới nơi rồi còn không biết xấu hổ mà cười.”
Tiết Hoàn nhìn nàng, tủm tỉm nói: “Có người chồng sắp rơi đầu tới nơi rồi còn có lòng dạ bôi son trát phấn cơ mà, chẳng lẽ ta thì không được cười?”
A Na Côi nghe câu này mà lòng quặn thắt, vừa muốn khóc lại vừa muốn cười, chỉ có thể nhỏ giọng xuống mắng hắn: “Chàng điên rồi à, chạy tới Kiến Khang làm gì?”
Tiết Hoàn thở dài, “Vợ ta chạy mất, ta đến xem xem, nếu nàng ấy bị người ta lừa tới đây thì ta sẽ nghĩ cách lừa nàng về, nếu nàng ta cam tâm tình nguyện bỏ trốn cùng trai hoang, vậy ta sẽ bỏ nàng ta ngay tại chỗ, từ rày về sau, nàng ta sống hay chết đều không liên quan đến ta.” Nói đến vế sau, sắc mặt hắn hơi cay nghiệt.
A Na Côi cắn môi dưới, căm tức trừng hắn, một giọt nước mắt suýt rơi xuống, nàng gắng nhịn, chậm rãi đi tới bên cạnh hắn. Tiết Hoàn lại hơi do dự trước, tuy hắn không câu nệ tiểu tiết nhưng bị bắt giam mấy tháng, quả thực nhếch nhác thảm thương. Hắn nhắc nàng: “Người ta thực sự hơi hôi đó…”
Mắt A Na Côi ngấn lệ, ánh mắt sáng rực như sao, nàng chế nhạo hắn: “Dê bò cũng không hôi bằng chàng!”
Tiết Hoàn cầm lòng không đậu, đón lấy A Na Côi như đón chim mỏi về tổ, mặc nàng tựa sát vào lòng hắn. Hơi thở hai người lúc trầm lúc bổng, nhất thời đều im lặng. A Na Côi nhớ đến tình cảnh lúc trước ở Mang Sơn, đương lưỡng lự thì nghe Tiết Hoàn nói: “Đàn Đạo Nhất cũng coi như đã cứu em, bằng không ta nhất định sẽ giết hắn. Không giết được hắn thì hôm nay sẽ giết vợ hắn trước, khiến hắn cũng thành cô hồn dã quỷ.”
A Na Côi ngẩng đầu lên nhìn hắn. Nàng không biết Tiết Hoàn đã nhìn thấy gì, đoán được gì.
Tiết Hoàn vuốt tóc mai nàng, đôi mắt sâu thẳm như có thể nhìn thấu nhân tâm, nhưng hắn không đề cập tới tên Châu Tuần Chi, chỉ nói: “Ta gặp Nguyên Mậu Hoa ở Mang Sơn, cô ấy cũng tưởng là nàng đã chết, khi ấy Nguyên Hồng lại hạ chiếu, hủy bỏ hôn ước giữa cô ấy và Phàn gia.”
“Mậu Hoa muốn gả mà.” A Na Côi nhớ đến vẻ mặt thẹn thùng khi gần tới hôn kì của Mậu Hoa, thực sự đau lòng thay cô.
“Hoàn Doãn và Nguyên Hồng là kẻ thù của nhau, cô ấy thực sự gả đi, cũng chưa chắc về sau có thể sống yên ổn.” Tiết Hoàn nói, “Đáng tiếc, xuất thân cô ấy như vậy, cuối cùng chỉ có thể vì phụ thân và huynh đệ sống nốt quãng đời còn lại với cô đăng ở Mang Sơn mà thôi.”
A Na Côi thất thần dõi mắt ra trước, nhất thời không nói gì. Cánh tay Tiết Hoàn ôm nàng chặt hơn, hắn thì thầm bên tai nàng: “Còn nhớ bài hát em hát lúc trước không?”
A Na Côi lơ đễnh: “Bài nào…”
Tiết Hoàn lại nhớ rất rõ ràng, “Em ơi em mình trao khăn tay, trao qua lại như đuôi dê vẫy. Trên ván mọi nhà có gì đấy? Một bé phỗng vàng này, một bé phỗng bạc này…”
A Na Côi hoàn hồn, kinh ngạc nhìn hắn. Nàng cũng đã nhớ ra, “Là hôm Kiến Khang thất thủ… Chàng còn nói chàng từng nghe thấy bài này ở Lạc Dương…”
Tiết Hoàn tiếp lời: “Trong nhà ở Lạc Dương, ta từng nghe một gia kĩ hát bài này,” Cảm nhận được A Na Côi chấn động, hắn nhẹ nhàng ghìm nàng lại, nhìn khuôn mặt sáng ngời ngày càng giống minh châu của nàng trong căn phòng tối, “Khi ấy ta còn chưa có kí ức, không biết bà ấy tên là gì. Về sau, nghe nói bà ấy bị phụ thân tặng cho một mạc tá họ Châu. Không bao lâu sau khi phụ thân ta bị biếm đi Bột Hải thì gặp họa khuynh gia, một lão bộc,” Hắn thoáng dừng, sửa lại, “Thực ra ông ấy không phải nô bộc mà là mạc tá của phụ thân ta, là đồng hương với họ Châu kia… Người này hãy còn mấy phần trung tâm, mang ta vào chùa lánh mấy năm. Thi thoảng ông ấy phàn nàn với ta, nói mạc tá họ Châu đó từng rất được phụ thân ta coi trọng, vậy mà rất nhanh đã đổi sang chủ mới, lúc ông ta chuyển nhà từ Bột Hải vào kinh, sợ bị thân thế gia kĩ kia liên lụy, bèn ruồng rẫy bà ấy, khi đó bà ấy đã có mang.”
Kinh ngạc tiêu tan trong mắt A Na Côi, vẻ mặt nàng hơi hờ hững, “Lão bộc của chàng cũng nghe tin đồn nhảm giống người khác rồi. Là trưởng nữ họ Châu kia sủng ái nhất sai người ném gia kĩ ấy xuống Tứ Thủy. Có lẽ là vì ả ta trời sinh có mệnh hoàng hậu nên họ Châu kia cam tâm tình nguyện gánh tiếng xấu máu lạnh vô tình thay ái nữ của lão.”
“Thiên vị đến thế thì tiếng xấu này cũng chẳng oan cho lão,” Tiết Hoàn lắc đầu, “Nói chung, một kẻ không xứng làm phụ thân, một kẻ không xứng làm tỷ muội.”
A Na Côi kiên quyết nói: “Súc sinh cũng không bằng!”
Tiết Hoàn cười, “So sánh súc sinh với chúng, súc sinh cũng phải tức chết.”
A Na Côi bỗng ngẩng đầu, hai mắt trong vắt nhìn Tiết Hoàn, nhìn đôi mắt luôn ngậm nét giễu cợt, trêu tức của hắn. Đối mắt này ẩn giấu bao nhiêu tâm sự đây… Nàng nghĩ. Đầu óc bị quá nhiều nỗi kinh ngạc choán lấy, nhất thời không biết phải nói từ chuyện gì.
Rốt cuộc cũng nhớ ra, nàng kéo cánh tay Tiết Hoàn, chờ hắn cúi đầu, nàng mới thần bí ghé vào tai hắn thì thầm, “Hoàng hậu sinh được một đứa con gái, em đoán, chắc hẳn bà ta đã đưa con bé về nhà họ Châu ở Bột Hải rồi, chúng ta đi trộm nó ra, bảo nó gọi em là mẹ, gọi chàng là cha, tức chết hoàng hậu đi!”
Tiết Hoàn gật đầu đồng ý, hắn cũng bắt chước A Na Côi, ghé vào tai nàng, nói như thật: “Em biết ta giỏi nhất chuyện gì không?”
A Na Côi hỏi: “Chuyện gì?”
Tiết Hoàn như cười như không: “Trộm người.”
A Na Côi phì cười, thổi phồng ra một bong bóng nước mũi thật to. Nàng mắng: “Không biết xấu hổ!”
Tiết Hoàn mân mê bàn tay nàng, nói như hứa hẹn, “Trước trộm lớn, sau trộm bé.”