“You had me at hello”
– ———————————-
Toán học là môn học đòi hỏi phải phân tích kỹ lưỡng. Trong ấn tượng rập khuôn của cậu, chuyến đi của nhà toán học phải được lên kế hoạch kỹ lưỡng và phải trải qua nhiều so sánh, giống như chiếc Cadillac được giảm giá 30% của Biên Thành.
Tuy nhiên, sau ngày đồng hành ở Las Vegas đó, Văn Địch biết rằng anh còn có một mặt khác – bốc đồng khó đoán.
Giống như khi họ đến Ergun bằng tàu hỏa và nhận phòng khách sạn, Văn Địch kinh hãi thấy trong phòng ngủ treo chiếc đèn chùm pha lê, bồn tắm bằng đá cẩm thạch quen thuộc trong phòng tắm, phòng khách rộng rãi như chứa được mười hai khách, ngoài phòng làm việc còn có một sân thượng nhìn toàn cảnh 360 độ, đứng từ đó có thể thấy được cảnh sắc tráng lệ của thành phố.
“Anh đặt phòng lớn vậy làm gì?” Văn Địch dựa vào lan can sân thượng, nhìn dòng sông Gen tĩnh lặng trong đêm, vừa nheo mắt thoải mái vừa tiếc nuối tài sản chung sau khi kết hôn đã bay mất một khoản.
“Anh đã tóm tắt lại đặc điểm của các nhân vật chính trong tiểu thuyết,” Biên Thành nói, “Họ ngủ trong phòng ngủ rộng một nghìn mét vuông mỗi ngày và thức dậy trên một chiếc giường lớn dài ba trăm mét. Khách sạn không có phòng lớn như vậy, nhưng chúng ta vẫn có thể thức dậy trên một chiếc giường dài ba mét.”
Văn Địch cảm thấy có lẽ anh đã phân tích sai thể loại tiểu thuyết rồi. Nhưng điều đó không thành vấn đề, theo bối cảnh của bất kỳ cuốn tiểu thuyết nào thì hẳn bây giờ cậu đã là giám đốc điều hành hoặc CEO của một công ty khởi nghiệp rồi, đương nhiên sẽ sống trong phòng tổng thống.
“Mình ăn gì vậy anh?” cậu hỏi.
“Gan ngỗng, trứng cá muối, nấm truffle trắng.”
“Mình đang ở thảo nguyên đấy.”
“Tiệc cừu nguyên con, tay cầm xiên thịt, xiên to khổng lồ.”
“Giống như em tưởng tượng.” Văn Địch nhận xét.
Biên Thành đưa cậu đến một nhà hàng nổi tiếng nằm gần khu thắng cảnh đầm lầy Ergun. Nhà hàng có phong cảnh đồng cỏ nhân tạo, thực khách có thể ngồi trong lều Mông Cổ và thưởng thức bữa tiệc cừu nguyên con. Mặc dù nguyên liệu nấu ăn đơn sơ nhưng Văn Địch vô cùng hài lòng với chuyến đi này.
Hơn nữa, tuy phòng tổng thống phí tiền nhưng lại cung cấp đa dạng lựa chọn cho cuộc vận động thể xác. Phòng khách, phòng ăn, phòng bếp, phòng làm việc, chỗ nào cũng phù hợp với các tình tiết khác nhau trong tiểu thuyết, chưa kể đây còn có phòng massage.
Bọn họ đã sử dụng tinh dầu, đá nóng và giường kéo một cách sáng tạo, khiến buổi rong ruổi trên thảo nguyên của ngày hôm sau được tiến hành vào buổi trưa, hơn nữa chắc chắn không thể cưỡi ngựa được.
“Chúng ta có thể lái xe dạo quanh đây.” Biên Thành nói.
Họ đến bằng tàu hỏa, Văn Địch vốn tưởng rằng Biên Thành đã đăng ký tour du lịch theo đoàn nào đó, nhưng khi tỉnh dậy từ phòng ngủ rộng 1.000 mét vuông (tưởng tượng) và đi đến cửa khách sạn, cậu phát hiện ra bên trong chiếc SUV đi thuê chỉ có một mình Biên Thành.
“Anh là tài xế riêng của em.” Biên Thành nói.
Sao nhân vật chính có thể đi du lịch theo đoàn được?
Xe chạy dọc theo con đường mòn trong thảo nguyên. Dưới chân là đồng cỏ xanh ngắt, thi thoảng điểm xuyết những bông hoa dại giống như một bức tranh sơn dầu. Trên đầu là những đám mây trắng đan xen với đường chân trời lững lờ trôi. Thỉnh thoảng lại có đàn dê và bò nhàn nhã ăn cỏ, ngẩng đầu nhìn về phía chiếc SUV đang chạy và kêu lên đầy tò mò.
Tốc độ của xe không hề chậm, nhưng khung cảnh trước mặt bao la bát ngát khiến ta rơi vào ảo giác bất động không nhúc nhích thêm một ly. Thảo nguyên là một vùng đất hoang dã không có điểm cuối, đóng băng không gian và thời gian.
“Hoàng hôn trên thảo nguyên chắc chắn sẽ rất đẹp,” Văn Địch thò đầu ra khỏi nóc xe SUV, gió mùa hè mang theo mùi cỏ tươi mát ập tới, cậu hít một hơi thật sâu, nhìn về đường chân trời xa xa, “Giông tố trên trên thảo nguyên chắc chắn cũng sẽ rất đẹp.”
“Tuy nhiên,” cậu nói thêm, “có vẻ như hai thứ này không thể xuất hiện cùng lúc được.”
“Vậy cũng chưa chắc.” Biên Thành nói.
Văn Địch thụt đầu vào trong xe, nghi ngờ nhìn Biên Thành. Anh giơ cổ tay lên nhìn đồng hồ nói: “Còn hai tiếng nữa.”
Văn Địch hỏi hai tiếng gì, Biên Thành bảo cậu cứ ngắm cảnh đi.
Một lúc sau, bầu trời càng lúc càng nhiều mây, ánh sáng dần phai mờ. Biên Thành đỗ xe bên đường, bánh xe lún một nửa trong cỏ, anh bật đèn flash kép.
“Trời sắp mưa à?” Văn Địch quan sát đám mây đen phía xa.
“Em nghe đi.” Biên Thành nói.
Thảo nguyên dần dần bị bao phủ trong sự im lặng ngột ngạt, bầu trời trở nên xám xịt và sâu hun hút.
Đột nhiên, chân trời lóe lên một tia sáng. Tiếng sấm rền ở nơi xa, sau đó dần to hơn, biến thành âm thanh đùng đoàng đinh tai nhức óc. Ngay sau đó từng tia sét xé rách bầu trời, đánh ra ánh sáng chói lóa trên màn mây dày đặc. Mỗi khi ánh chớp lóe lên, những bông hoa rải rác trên đồng cỏ sáng lên trong chớp mắt rồi lại chìm vào u tối.
Gió càng lúc càng mạnh. Những ngọn cỏ đung đưa trong gió như đang reo vui chờ cơn mưa tới. Ngay sau đó mưa trút xuống như thác nước, như muốn lấp đầy mọi khoảng trống giữa trời và đất. Đàn dê và bò đã được chủ nhân lùa về, chỉ còn lại hai người trong xe, như chiếc thuyền manh đơn độc trong cơn bão.
Giông tố trên trên thảo nguyên đem đến một vẻ đẹp hãi hùng khiến người hoảng sợ.
Sau đó Biên Thành lấy điện thoại ra, mở một phần mềm chứng khoán rồi đưa cho Văn Địch.
Văn Địch không hiểu lắm: “Em không để ý tới tiền.”
Biên Thành chỉ vào tên công ty ở đầu trang, Văn Địch nhìn kỹ hơn rồi nói “À”.
Là công ty của bạn trai cũ được niêm yết trên Nasdaq.
Văn Địch nhắm chặt mắt, đẩy ra: “Cho em xem cái này làm gì?”
“Em ước một điều ước đi,” Biên Thành nói, “Sau đó chờ anh ra hiệu thì mở mắt ra nhé.”
“Hả?”
Văn Địch đầy bụng nghi ngờ nghe tiếng mưa rơi không ngớt, thầm hạ câu nguyền rủa trong lòng. trong lòng chửi rủa, Sau đó Biên Thành nói: “Mở mắt đi em.”
Văn Địch mở mắt ra, đồ thị giá cổ phiếu của công ty đập vào mắt cậu. Đường đồ thị xanh lá giật giật rồi rơi xuống với tốc độ kinh người.
Cậu chộp lấy chiếc điện thoại và dán mắt vào màn hình với vẻ không thể tin nổi.
“Không phải anh đã nói rồi ư?” Biên Thành nói: “Em là nhân vật chính của thế giới, hết thảy mong muốn của em đều có thể thành sự thật.”
Văn Địch nhìn giá cổ phiếu giảm từ giá mở cửa 120 xuống 100, khi thấy nó sắp xuống 80, cậu bỗng bật cười vui vẻ.
Tất nhiên cậu biết rằng trên thế gian này không có kỳ tích. Dự báo thời tiết nói rằng hôm nay sẽ có một cơn giông ngắn, mà công ty của Hà Văn Hiên sợ là mới đăng thông báo gì đấy, chắc là thông báo phát hiện ra những khiếm khuyết nghiêm trọng của sản phẩm mới nhất, cần phải thu lại trên toàn thế giới. Chồng cậu không phải thần linh, anh chỉ giỏi thu thập thông tin mà thôi.
Tuy nhiên, trong khoảnh khắc ngắn ngủi này, cậu nguyện ý tin tưởng hết thảy những điều này đều được thực hiện bởi lời cầu nguyện mãnh liệt trong tim. Vào lần thứ hai bọn họ chạy trốn khỏi hiện thực, cậu là nhân vật chính, là trung tâm của thế giới.
Cơn mưa như trút nước đổi thành cơn mưa phùn dai dẳng.
“Hồi nhỏ em rất thích mưa,” Văn Địch nói, “Buổi tối nghe tiếng mưa rơi nằm ngủ cảm giác rất thỏa mãn.”
“Vậy thì em ngủ đi.” Biên Thành nói rồi bật dàn âm thanh trên xe.
Những bài hát trữ tình nhẹ nhàng hòa với tiếng mưa, trước mặt là bình nguyên, cỏ xanh, hoa dại bát ngát. Trong thế gian bao la rộng lớn này chỉ còn lại hai người bọn họ và cả những hạt mưa không ngừng rơi.
Văn Địch nhắm mắt lại, cảm giác mệt mỏi vì viết luận văn xộc lên đầu cậu, cơn buồn ngủ ập tới. Cậu dần thiếp đi trong tiếng mưa, như đang trôi lềnh bềnh trên đại dương.
Không biết qua bao lâu, âm thanh tí tách thư giãn đã dần dần chấm dứt, có người nhẹ nhàng đẩy vai cậu: “Tạnh mưa rồi.”
Rèm mi rung nhè nhẹ, bỗng cậu mở to mắt.
Mặt trời buông lơi ở đường chân trời, phân nửa giấu mình sau những ngọn đồi nhấp nhô. Những đám mây dày đã tản đi, chỉ còn lại ráng chiều đỏ ửng hắt lên ở đường chân trời. Dưới ánh chiều tà, thảo nguyên được nhuộm một vầng sáng vàng dịu. Những ngọn cỏ nhọn hoắt và cánh hoa lấp lánh những giọt nước đọng trong suốt, lung linh từng tia sáng.
Văn Địch kìm lòng không đặng, mở cửa xe, bước lên con đường vừa tắm mình dưới mưa.
Biên Thành đi theo cậu, chỉ vào một ngọn đồi cách đó không xa: “Chúng ta tới đó đi.”
Cứ như vậy, nhân vật chính của thế giới được dẫn lên đỉnh đồi, sau đó Biên Thành chỉ về phía chân trời và nói: “Em nhìn kìa.”
Một chiếc cầu vồng lặng lẽ nhô lên, cong cong ở một góc trời, màu sắc trong trẻo và bừng sáng, tưởng chừng sẽ vỡ tan khi chạm vào.
Văn Địch ngẩng đầu nhìn kỳ tích trên bầu trời, trong lòng cảm thấy xúc động và kính phục.
“Nhìn bên kia nữa.” Biên Thành chếch ngón tay khỏi cầu vồng một xíu.
Văn Địch kinh ngạc kêu lên. Còn có một chiếc cầu vồng thứ hai, tối hơn cầu vồng đầu tiên rất nhiều, nếu không cẩn thận quan sát thì khó phát hiện ra.
Văn Địch vừa ngắm nghía vừa hỏi: “Sao anh thấy được nhanh thế?”
“Vị trí của cầu vồng được xác định bởi mối quan hệ hình học giữa khúc xạ và phản xạ”, Biên Thành nói. “Cầu vồng chính thường tạo thành một góc ở tâm khoảng 42 độ với người quan sát và mặt trời, còn cầu vồng thứ cấp tạo thành một góc ở tâm là 51 độ. Vì ánh sáng được hình thành sau hai lần phản xạ bên trong giọt nước nên thứ tự màu sắc của cầu vồng thứ cấp ngược lại với cầu vồng chính và độ sáng tương đối thấp.”
Văn Địch phân biệt rõ hai thứ, cảm thấy đây là chuyện đương nhiên. Ai nói bạn không thể tính được góc khúc xạ khi đang đứng trên thảo nguyên bát ngát và dưới hoàng hôn lãng mạn chứ?
“Nếu sau này mình đi ngắm cực quang, ngắm sao và ngắm hoa, có phải anh cũng sẽ giảng toán cho em nghe không?” Cậu hỏi.
“Trình tự sắp xếp cánh của rất nhiều loài hoa tuân theo dãy Fibonacci, ” Biên Thành nói, “Ví dụ như hoa hướng dương”.
Văn Địch nhìn anh, gật đầu: “Được rồi, vạn vật đều liên quan đến toán học. Có phải tình yêu cũng có công thức toán học không?”
Biên Thành nói: “Cái này có hơi cực đoan.”
“Ồ.”
“Nhưng mà,” Biên Thành nói thêm, “nếu chúng ta nhất quyết phải so sánh tình yêu với một công thức toán học, thì đó là phương trình bậc năm của một nghiệm thỏa mãn điều kiện ánh xạ nén.”
Cái anh này vừa mới cho là mình biết thế nào là cực đoan. Văn Địch nghĩ thầm.
Cậu khoanh tay: “Anh biết hai phần ba câu này em nghe không hiểu đúng không?”
Vốn dĩ cậu không định để cho Biên Thành giải thích nhưng đối phương vẫn lên tiếng.
“Chắc em đã học phương trình bậc hai rồi, ” Biên Thành nói, “Phương trình này có một công thức, chỉ cần biết hệ số của phương trình, áp công thức vào là có thể tính được nghiệm của phương trình.”
“Ừm,” Văn Địch nói, “Cái này em biết.”
“Các phương trình tuyến tính, phương trình bậc hai, phương trình bậc ba và phương trình bậc bốn đều có công thức tìm nghiệm, ” Biên Thành nói, “Không có phương trình nào trên bậc năm. Tất nhiên không có phương trình bậc năm một nghiệm nào thỏa mãn điều kiện ánh xạ nén.”
Văn Địch mù mờ: “Ồ.”
“Nhưng mà,” Biên Thành nói, “Nó có một nghiệm duy nhất.”
Bạn không biết nghiệm này ở đâu. Ngay cả khi bạn biết tất cả các hệ số, bạn cũng không thể tìm thấy nó bằng bất kỳ công thức cố định nào. Tuy nhiên, bạn biết rằng nó tồn tại, nó là duy nhất và nó là giao điểm độc nhất của đường cong cô đơn này trong trường số mênh mông.
“May mắn thay,” Biên Thành nói, “Anh đã tìm được nó.”
Văn Địch nhìn anh, một lúc sau cậu mới hiểu được chuyện gì vừa xảy ra.
“Đợi đã,” Văn Địch nói, “Anh đang tỏ tình với em hả?”
“Không,” Biên Thành nói, “Anh đang cầu hôn em.”
Sau đó, trên thảo nguyên còn vương mùi đất ẩm, trong tà dương le lói, dưới cầu vồng chớp tắt, người trước mặt cậu quỳ một gối xuống.
Trên tay anh cầm một chiếc nhẫn bạc đơn giản, chỉ khi nhìn kỹ thì mới phát hiện ra hoa văn bông tuyết Koch được khắc trên đó.
“Em có bằng lòng lấy anh không?”
Văn Địch nhìn anh lâu thật lâu, sau đó mỉm cười rạng rỡ.
Có lẽ thế giới vẫn tươi đẹp làm sao, cho dù có là tên siêu cấp mù nhạc, khuyết tật cảm xúc, điểm kỳ dị của nhân loại, phát cuồng với việc phân loại rác, là sinh vật 1,26 chiều trong thế giới ba chiều thì vẫn có thể tìm ra giải pháp duy nhất.
Người sống tại hai đất nước khác nhau sẽ cùng đến một quán bar nhỏ, gặp nhau khi lời bài hát đầu tiên vang lên.
“You had me at hello.”