“Bạo lực học đường? Trường tôi tuyệt đối không có vấn nạn này.”
– ———————————-
Dòng hồi tưởng chấm dứt, chuông cửa reo.
Biên Thành đứng dậy cầm bữa tối vào, Văn Địch ngồi vào bàn, trong lòng quay cuồng không biết là đang ngạc nhiên hay thán phục.
Cậu cố tưởng tượng ra cảnh Biên Thành giống như một đứa trẻ bình thường, mỉm cười khen ngợi tài nấu nướng của mẹ. Cậu khó mà tưởng tượng được.
Hóa ra thầy cũng có một mặt này.
Khi Biên Thành cầm túi đồ ăn về, thấy người ở bàn ăn vẫn đang nhìn chằm chằm vào mình thì hỏi sao vậy.
Văn Địch lắc đầu: “Tôi có nhận thức mới về nhân tính thôi.”
Biên Thành gọi người đang xem phim hoạt hình ra ăn cơm. Mặc dù Giang Vũ đang mê mẩn xem phim nhưng nghe thấy tên mình cũng lập tức đứng dậy bước ra, ngồi thẳng người trên ghế.
Biên Thành đẩy phần cơm của nhóc sang, nhóc tách đũa nghiêm túc ăn. Văn Địch nhìn nhóc đoan trang gắp từng miếng một, chẳng hề gợi ra chút cảm giác thèm ăn nào cho người ta, thoáng thấy được sự giống nhau của gia đình.
Biên Thành phối hợp với suy nghĩ đó của cậu, ngồi đối diện nhóc lặp lại hành động đấy như một tấm gương. Sau khi ăn xong, ba người dọn hộp cơm, Giang Vũ lấy ra một cuốn sách sưu tầm từ tủ sách trong phòng khách, nóng lòng giơ lên: “Anh ơi, anh xem nè!”
Văn Địch tò mò rướn cổ, Giang Vũ đưa sách cho cậu nhìn, bên trong dán rất nhiều cỏ bốn lá.
Biên Thành giải thích với Văn Địch: “Em ấy thích sưu tầm mấy thứ này.”
Giang Vũ hớn hở lật từng trang, cỏ bốn lá được dán chỉnh tề: “Cuối cùng cũng đầy rồi!”
Văn Địch tưởng Biên Thành sẽ khen nhóc, hoặc ít nhất cũng sẽ gật đầu, kết quả anh lại nghiêm giọng nói với em trai: “Cất đi, chúng ta cần nói chuyện.”
Giang Vũ hiếm khi nhìn thấy vẻ mặt như vậy của anh trai mình, nhóc liền đóng sách lại, cảm giác như mình đã làm sai cái gì đó nhưng lại không biết mình sai ở đâu.
“Mình phải đổi trường.” Biên Thành nói.
Văn Địch lộ ra biểu cảm tán thành. Không cần biết trước kia là do bồi dưỡng sở thích hay Giang Vũ thích hoạt động câu lạc bộ ở đây nhưng bây giờ nhóc không thể học ở đây nữa.
Phản ứng của Giang Vũ vượt ngoài dự liệu của hai người. Bình thường đứa nhóc này sẽ ngoan ngoãn nghe lời, bị bắt nạt vẫn vui vẻ làm theo nhưng bây giờ lại phản đối mạnh mẽ: “Không được.”
“Trường học đó không phù hợp với em,” Biên Thành nói, “Mình sang trường khác tốt hơn.”
Không biết có phải Giang Vũ nghe không hiểu không, nhóc chỉ ngoan cố lặp lại: “Không được.”
Đứa trẻ này vẫn luôn ngoan ngoãn, Biên Thành cũng thấy khó hiểu: “Tại sao?”
“Bạn em ở đây.”
Biên Thành thở dài, đây là một vòng tuần hoàn. Giang Vũ giống như một nam châm hình người, tới chỗ nào thu hút kẻ xấu xa nhất chỗ đó. Bọn họ chơi đùa với Giang Vũ nhưng người bị hại lại chẳng hề hay biết, bị bán còn vui vẻ đếm tiền giúp người ta.
Anh đau đầu, phiền não không biết phải giải thích sự nguy hiểm của thế gian như thế nào với nhóc ngốc nghếch ngây ngô này. Sau đó, Giang Vũ rời khỏi bàn ăn và chạy vào phòng ngủ.
Khi quay lại, trên tay nhóc cầm một mảnh kim loại nhỏ. Nhóc cẩn thận đặt nó lên bàn rồi đưa cho hai người lớn xem: “Một người bạn đưa cho em.”
Văn Địch nghiêng người sang nhìn, là một cái đánh dấu sách bằng kim loại. “Sao bạn lại đưa cho em?” Văn Địch hỏi.
Giang Vũ nghĩ ngợi, nói: “Em cũng không biết, bạn ấy không cho em nói chuyện với bạn.”
Biên Thành cảm thấy cơn đau đầu của mình trở nên trầm trọng hơn. Cái này nghe chẳng giống quà tặng mà giống như đang mỉa thì đúng hơn. Cảnh tặng quà chắc sẽ là thế này: Một người bạn cùng lớp nào đó đang đọc sách, Giang Vũ tò mò hỏi cậu đang đọc gì thế. Cậu bé kia nhếch miệng cười khinh rồi nói “Đồ ngu cũng muốn đọc sách à” rồi vứt đánh dấu sách cho nhóc, sau đó cùng cười nhạo với những người xung quanh.
“Sau này em tránh xa cái loại đó ra.” Biên Thành nói: “Cậu bé đó tên là gì?”
“Cù Duệ Hành.” Giang Vũ muốn viết cái tên đó lên bàn nhưng viết được một phần thì dừng lại, gãi đầu nghĩ những nét còn lại, ủ rũ nhận ra nhóc lại quên. Sao bạn ấy không thể có một cái tên đơn giản vậy? (Cù Duệ Hành: 瞿睿衡)
Biên Thành chỉ có được ba âm tiết nhưng điều này không hề ngăn anh liệt cái tên này vào danh sách bị cáo.
Văn Địch im lặng nhìn một lúc, nhìn Biên Thành nói: “Mai tới trường học thì đưa tôi theo với.”
Biên Thành có hơi kinh ngạc: “Em muốn làm gì?”
“Từ chức,” Văn Địch nói, “Tôi đắc tội với nhà tài trợ lớn của trường, còn ở lại được hả? Trước khi bị sa thải thì tôi phải từ chức trước, như vậy nghĩa là tôi coi thường bọn họ, không phải bọn họ vứt bỏ tôi. Đây gọi là thắng về mặt tinh thần.”
“Xin lỗi em,” Biên Thành nói, “Vì em trai anh mà em mới bị thế này, gây rắc rối cho em rồi.”
“Em xin lỗi anh.” Giang Vũ vội vàng cúi đầu. Nhóc hiểu “gây rắc rối” nghĩa là gì.
“Tôi còn đang tự hào vì làm anh hùng nè, hai người đừng có phá hỏng bầu không khí chứ, ” Văn Địch xua tay, “Không sao, tôi cũng quen rồi. Dù sao tôi cũng có thể chất xui xẻo, lần này cũng chẳng khác mấy.”
“Thể chất xui xẻo?” Giang Vũ nghiền ngẫm bốn chữ này.
“Là xui xẻo á.” Văn Địch nói xong lại sầu, vận xui của cậu đã kéo dài từ sự học qua sự nghiệp, mong là đợt tuyển dụng mùa thu sẽ khá khẩm hơn.
Ăn cơm xong, Văn Địch còn có việc phải làm nên đứng dậy cáo từ. Mặc dù chỉ cách nhau khoảng mười bước nhưng Biên Thành vẫn đưa cậu về tận cửa.
Biên Thành nhìn câu đối trên cửa, nói: “Đã lâu rồi chúng ta không nói chuyện trong hòa bình thế này.”
“Không phải vì có trẻ con bên cạnh ư?”
“Ừ,” Biên Thành nói, “Cảm ơn em đã giúp em ấy. Em có rảnh thì anh mời em bữa cơm.”
Văn Địch cảm thấy đây là việc nên làm nên đồng ý, sau đó bỗng ý thức được một chuyện: “Sao tôi sang nhà anh ăn cơm mà nhóc đấy không thấy lạ vậy? Nhóc đấy biết tôi là ai hả?”
“Không, chỉ là em ấy thích em mà thôi, ” Biên Thành cố gắng trấn an cậu, “Em ấy không biết mối quan hệ của chúng ta, cũng không biết rằng anh rể đã giúp đỡ em ấy.”
“Anh rể là cái gì vậy!”
“Brother-in-law?”
Văn Địch ôm đầu, là cái gì vậy trời! “Tạm biệt!”
Đang lúc cậu chuẩn bị đóng cửa thì một cái đầu đột nhiên ló ra từ bên trong. Văn Địch cúi đầu, thấy Giang Vũ tròn xoe mắt nhìn cậu đầy mong chờ.
“Muốn chào tạm biệt anh ấy hả?” Biên Thành hỏi Giang Vũ.
Giang Vũ lắc đầu, lấy sách sưu tầm ra đưa cho Văn Địch.
Văn Địch nhìn sách, nhất thời có chút luống cuống, “Cho anh?” Cậu ngập ngừng nhận lấy, “Tại sao?”
“Cỏ bốn lá,” Giang Vũ nói, “Sau này chắc chắn sẽ tốt hơn.”
Văn Địch cúi đầu, nhìn thấy màu xanh lộ ra từ trang sách. Những nhành cỏ bốn lá được thu thập cẩn thận, phơi khô, dùng bìa cứng ép dẹt rồi được dán gọn gàng xuống trang giấy.
“Cảm ơn em.” Văn Địch nói. Trong khoảng khắc này, cậu đột nhiên hiểu ra rất nhiều chuyện.
Sáng hôm sau, vừa rửa mặt xong, Biên Thành đã tới gõ cửa nhà cậu. Có xe đưa đi làm sướng ghê.
Khi đến trường, cậu tới khu vực cấp ba trước để nộp đơn từ chức, nhận số lương thực tập còn lại. Biên Thành thì đi đến phòng hiệu trưởng trong tòa nhà hành chính.
Phòng hiệu trưởng rất rộng rãi, vừa bước vào cửa sẽ là một phòng tiếp khách, trong đặt hai chiếc ghế sofa đối diện nhau, ở giữa là bàn trà mặt kính, trên bàn có gạt tàn thuốc và bộ ấm trà. Hôm qua Biên Thành nhận được điện thoại của phó hiệu trưởng Phương quản lý chuyện học sinh, bảo anh rằng hôm nay sẽ giải quyết ở đây.
Tuy nhiên khi anh bước vào trong thì nhận ra trong này chỉ có một mình anh.
Thư ký cười như không cười bước vào, rót cho anh một ly trà.
Biên Thành hỏi: “Bố mẹ Dương Thiên Hoa đâu?”
“Hôm nay ông bà Dương có buổi tiệc quan trọng nên không thể tới, ” Thư ký nói, “Luật sư của bọn họ sẽ nói chuyện với anh.” Hắn nhìn đồng hồ, “Chắc đang bị kẹt xe, xin anh hãy chờ một lát.”
Biên Thành cau mày. Thái độ của đối phương còn ngạo mạn hơn so với tưởng tượng của anh.
Không lâu sau đó có hai người đàn ông trung niên xuất hiện ở cửa, một người bụng phệ còn một người mặc vest, đi giày da. Thư ký chỉ vào người béo và giới thiệu đây là phó hiệu trưởng Phương, người còn lại đương nhiên là luật sư của nhà Dương.
Nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của phó hiệu trưởng, Biên Thành cảm thấy chuyến thăm hôm nay của mình nhất định là vô ích.
Quả nhiên, Biên Thành vừa nhắc đến chuyện ngày hôm qua, nụ cười của phó hiệu trưởng Phương đã biến mất, nhíu mày: “Bạo lực học đường? Trường tôi tuyệt đối không có vấn nạn này.” Ông ta nghiêm túc nói.
Biên Thành mở điện thoại ra, trong đó là vài tấm hình chụp những vết bầm tím trên cánh tay và cẳng chân.
Phó hiệu trưởng Phương cầm lấy xem qua, lắc đầu, đẩy điện thoại lại: “Người giám hộ của em Giang Vũ, chúng ta hãy nói chuyện thực tế đi, con trai ở độ tuổi này sẽ chạy giỡn trong giờ ra chơi hoặc trong giờ thể dục. Trường chúng tôi có rất nhiều hoạt động câu lạc bộ, những đứa trẻ học đấu kiếm, cưỡi ngựa và khúc côn cầu còn có nhiều vết bầm trên người hơn thế này cơ.”
“Em ấy không biết đấu kiếm, cưỡi ngựa hay chơi khúc côn cầu.”
“Sao anh biết được? Đôi khi bố mẹ không hiểu được con cái đâu.”
Biên Thành nhìn ông ta: “Có ý gì?”
“Anh cũng không phải bố mẹ ruột của thằng bé, thời gian ở chung với nó không nhiều, ” Phó hiệu trưởng nói, “Con cái đôi khi sẽ nói quá, chúng ta làm người giám hộ thì phải phân biệt kỹ càng.”
Luật sư bên cạnh cũng lên tiếng: “Ngài Biên, pháp luật rất chú trọng chứng cứ, nếu là bạo lực thể xác thì phải có biên bản thương tích, còn nếu là bạo lực tinh thần thì phải có giấy chứng nhận chẩn đoán. Không thể trong tay trống trơn rồi cứ thế cáo buộc đây là “bạo lực học đường” được, đó chẳng phải là vu oan giá họa sao?”
“Nếu em ấy không gãy xương, không có sẹo thì chính là không có chuyện gì? Biên Thành lạnh lùng nhìn hắn, “Chỉ cần em ấy không bị điên, không trầm cảm thì chính là không có chuyện gì?”
“Người giám hộ của em Giang Vũ, xin anh bình tĩnh lại, chuyện nào nghiêm trọng như anh nói chứ?” Phó hiệu trưởng nói, “Anh cũng không có mặt ở hiện trường.”
“Tôi có.” Một giọng nói vang lên ở cửa.
Hai người đứng song song với nhau cạnh ghế sofa quay đầu lại, thấy Văn Địch đang đứng ở cửa.
Phó hiệu trưởng trừng thư ký, tựa hồ đang trách hắn không có cản người ta: “Đây cũng là người giám hộ của em Giang Vũ hả?”
“Tôi là nhân chứng,” Văn Địch nói, “Tôi đã tận mắt chứng kiến người bạn cùng lớp họ Dương đấy cố ý tông xe đạp vào em ấy.”
Luật sư và phó hiệu trưởng nhìn nhau: “Có chắc là cố ý tông không? Thân chủ của tôi nói rằng cậu bé đấy phản ứng chậm không kịp tránh mà thôi, ” luật sư hỏi, “Hay là anh có quay video lại?”
“Khi thấy người khác bị tông, phản ứng đầu tiên nhất định là chạy lại giúp đỡ người đó, nào có thời gian quay video?”
Luật sư mỉm cười: “Vậy…”
“Nhưng tôi đã ghi âm lại tất cả những gì xảy ra sau đó.” Văn Địch lấy điện thoại ra và bật một đoạn âm thanh.
[Anh chỉ là một tên giáo sinh thôi mà kiêu ngạo thế? Bố tôi dùng một ngón tay thôi cũng đủ nghiền nát cả nhà anh đấy anh có tin không?]
[Tự nhận là thầy giáo mà sao hành xử như thằng hề vậy?Tôi gọi điện thoại cho anh cút liền nè!”]
Sắc mặt của hai người còn lại ở đây tối sầm, Văn Địch tắt điện thoại, thở dài: “Nếu đăng lên mạng chắc hot lắm đây. Vừa hay tôi có người bạn làm trong mảng phương tiện truyền thông cá nhân.”
Cậu ném cho Biên Thành một ánh mắt – dù bên bọn họ cũng nói không ít nhưng vẫn có thể biên tập được.
“Lời mẹ cậu bé nói cũng rất thú vị, ” Văn Địch nói thêm, “Có thể nói quả là lời hay ý đẹp.”
Luật sư nhìn cậu chằm chằm, như thể đang đánh giá rắc rối khi phải đối phó với dư luận. Một lát sau, luật sư quay lại hỏi Biên Thành: “Yêu cầu của hai ngài là gì?”
“Nghỉ học, trong học bạ ghi đã từng có hành vi bạo lực với bạn cùng lớp.” Biên Thành nói, “Đó là một yêu cầu rất hợp lý.”
Luật sư cau mày, dường như hoàn toàn không đồng ý với từ “hợp lý” này, suy nghĩ một lúc rồi nói: “Được rồi, mặc dù thân chủ tôi không cố ý làm vậy, nhưng dù sao cũng khiến em Giang Vũ bị thương, chúng tôi có thể bồi thường tài chính cho các ngài.”
“Không cần,” Biên Thành nói, “Tôi đã nói yêu cầu của tôi rồi, tôi hy vọng anh sẽ cho tôi câu trả lời trước năm giờ chiều mai. Còn nữa bảo bố mẹ Dương Thiên Hoa đích thân đến trao đổi với tôi, nếu không tôi sẽ đăng đoạn ghi âm này lên mạng.”
Anh đứng dậy, đi vòng qua chiếc bàn đang đặt tách trà nguội ngắt và tới trước mặt Văn Địch. Cậu điềm nhiên đi theo anh ra cửa, về phía bãi đậu xe.
Trên đường đi, họ bắt gặp những học sinh tràn đầy năng lượng đang nô đùa, tiếng cười vang vọng khắp sân trường. Những cô cậu học sinh này đương độ xuân thì, tiền đồ như gấm, thật giống như sẽ chẳng có câu chuyện bi thương nào xảy ra với cuộc đời của họ.
Đi qua góc tòa nhà dạy học, Văn Địch nói: “Nếu là tôi thì tôi sẽ nghỉ học luôn, Không phao tin, không gây chuyện, cũng không nghĩ tới chuyện đòi lại công bằng.”
Cái người trước đấy đã lưu giữ bằng chứng, dự đoán rằng cuộc đàm phán sẽ không suôn sẻ, chạy tới cứu người lại nói rằng bản thân sẽ đầu hàng ngay tắp lự. Biên Thành cảm thấy kinh ngạc.
“Mặc dù tôi thích ý tưởng rằng công lý tất thắng nhưng điều này rất khó để xảy ra trong cuộc sống, ” Văn Địch nói, “Dân đen đấu địa chủ, hại ắt nhiều hơn lợi, phản ứng đầu tiên của tôi chính là thôi bỏ đi.”
“Vậy vì sao…”
“Bởi vì có anh,” Văn Địch quay đầu mỉm cười ung dung với anh, “Tôi tin anh sẽ gánh phần phiền phức.” Nói xong, cậu lại thấp thỏm hỏi: “Anh sẽ gánh mà, đúng không?”
Biên Thành vội vàng cam đoan: “Tất nhiên.”
Văn Địch gật đầu, tựa như không cần anh phải chứng minh thêm gì nữa, sau đó hỏi: “Vậy tại sao anh không ngại phiền phức?”
“Trường học không phải là xã hội,” Biên Thành nói, “ít nhất là trong giai đoạn giáo dục bắt buộc, chúng ta không thể dùng loại chuyện này để dạy cho học sinh biết rằng chỉ cần có quyền lực thì mọi việc chúng nó làm đều đúng và sẽ không có hậu quả gì. Nếu cuối cùng trường học dạy cho học sinh cái quan niệm này thì đấy sẽ là điểm kết thúc của xã hội.”
Văn Địch không mấy ngạc nhiên khi anh suy nghĩ như thế. Chủ nghĩa lý tưởng của người này trong giáo dục và học thuật được đề cao đến đáng sợ.
Nói đến trường học, Biên Thành nhớ tới việc Văn Địch mới từ chức, lại nói: “Làm em bị mất việc rồi, xin lỗi em nhiều.”
Văn Địch thở dài: “Gần đây nghe anh xin lỗi đến chán luôn ấy. Đã bảo không sao rồi, cái thứ trường học rách này cũng chẳng có gì hay, hơn nữa tôi luôn muốn vào đại học.”
Sau năm năm kết hôn, đây là lần đầu tiên họ nói về dự định tương lai của mình. Biên Thành tò mò về kế hoạch cuộc đời của bé chồng anh: “Tại sao lại muốn trở thành giảng viên đại học?”
“Cũng không hẳn là muốn.” Văn Địch nói: “Chỉ là đi theo con đường này… một cách tự nhiên thôi.”
“Một cách tự nhiên” không được tính là một lý do hoàn chỉnh trong mắt Biên Thành, giới học thuật vừa khổ vừa mệt, tiền lương cũng thấp, chỗ tốt duy nhất là được tự do nghiên cứu. Nếu như không thực sự đam mê thì đi theo con đường này cũng quá thiệt thòi: “Không muốn nghiên cứu thì sao em lại học lên tiến sĩ?”
“Rất nhiều người không muốn nghiên cứu nhưng vẫn đi học tiến sĩ đấy thôi, ” Văn Địch nói, “Ví dụ như tôi đi, tôi là sinh viên chuyển tiếp vào đại học, không có sở trường gì, mấy năm trước chỉ biết vùi đầu vào học, không có lập kế hoạch nghề nghiệp, năm ba kết thúc cũng không đi thực tập, hoàn toàn không biết gì về ngành nghề và nơi làm việc. Tôi đã ứng tuyển vào một số vị trí trong kỳ nghỉ hè, nhưng suốt buổi phỏng vấn nhóm, tôi lại bối rối và không biết làm sao để giành nói với người khác. Người phỏng vấn hỏi tôi có kinh nghiệm gì phù hợp với vị trí đó không, trừ học vấn ra tôi chẳng thể kể ra được cái gì. Bị từ chối mấy lần, tôi chợt cảm thấy ưu thế lớn nhất của mình là học tập, nơi thích hợp nhất với tôi chính là trường học, vậy nên tôi thà ở lại trường cả đời còn hơn. Vì vậy nên tôi học lên tiến sĩ luôn.”
Nghĩ lại thì đó thực sự không phải là một lựa chọn sáng suốt. Cậu vốn không giỏi nghiên cứu văn học, người hướng dẫn lại là quẻ đại hung, đời tiến sĩ của cậu thứ được rèn luyện nhiều nhất chính là năng lực chạy việc vặt.
“Tất nhiên là còn do địa vị xã hội nữa,” Văn Địch bổ sung, “Khi trò chuyện với người thân và bạn bè, họ hỏi tôi làm việc ở đâu, tôi nói tôi là giáo sư đại học thì cuộc trò chuyện sẽ kết thúc trong bầu không khí hai bên đều hài lòng.”
“Chỉ để tết về nói chuyện không bị xấu hổ mà em đi theo con đường học thuật?”
Văn Địch cau mày nhìn anh: “Đây là một lý do rất chính đáng! Anh chưa bao giờ đi xã giao, cũng không thèm để ý tới cảm xúc của người khác, tất nhiên đâu có quan tâm.”
Biên Thành không phản bác mà chỉ hỏi cậu, nếu đã ám chỉ bản thân không phù hợp với văn học thì sao không đổi sang chuyên ngành khác.
“Muốn đổi ngành nào có dễ, ” Văn ĐỊch nói, “Năm đầu năm hai đại học điểm không cao, không đổi được. Sau đó thành tích đi lên thì lại muộn rồi. Hơn nữa đổi thì đổi sang đâu? Công ăn việc làm ở các chuyên ngành xã hội đều na ná nhau, không cần đổi. Nhưng từ văn đổi sang lý thì lại khó quá.”
Vì vậy, giống như việc theo con đường học thuật “một cách tự nhiên”, cậu cũng ở lại khoa Ngoại ngữ “một cách tự nhiên”.
Biên Thành có vẻ trầm tư, không biết vì sao Văn Địch cảm nhận được nỗi tiếc thương từ sự im lặng của anh.
“Sao vậy?” Văn Địch hỏi.
“Em thông minh, năng lực học tập tốt, cũng có thể chịu khổ được,” Biên Thành nói “Nếu từ đầu em đi đúng hướng thì chắc em sẽ phát triển rất tốt.”
Văn Địch chẳng hề kinh ngạc với “Thiên tài như anh mà thấy tôi thông minh hả”. Cậu nhìn cành liễu rũ, một lúc sau mới nói: “Anh có nhớ Vu Tĩnh Di không? Bạn cùng nhà của tôi.”
Biên Thành gật đầu. Họ đã từng gặp nhau một lần khi anh cãi nhau với Văn Địch.
“Cô ấy là sinh viên hạng nhất trong khóa chúng tôi,” Văn Địch nói “Các giáo sư cũng công nhận cô ấy là sinh viên ưu tú nhất Khoa Ngoại ngữ trong suốt mười năm qua. Luận văn tốt nghiệp của Vu Tĩnh Di đã giành được giải thưởng tại một hội nghị ngôn ngữ học rất quan trọng, có một giáo sư ở Cambridge rất thích cô ấy và muốn nhận cô ấy làm học trò.”
“Chuyện đó không tốt ư?”
“Tốt chứ, hơn nữa cô ấy thích ngôn ngữ học,” Văn Địch suy nghĩ một lúc rồi đổi lời, “Không thể dùng “thích”, phải là “say mê”. Có điều, mặc dù nhà Vu Tĩnh Di không được coi là hộ nghèo nhưng bố mẹ cô ấy chỉ là công nhân bình thường, không có nhiều tiền.”
Kiểu câu chuyện này Biên Thành đã từng nghe, có không ít sinh viên Khoa Toán chuyển ngành vì điều kiện tài chính.
“Vốn dĩ Vu Tĩnh Di không định đi, sau khi bố mẹ cô ấy biết chuyện liền gọi cô ấy mắng một trận, nói nào có bố mẹ không cho con gái mình học ở Cambridge chứ. Sau đó họ bán nhà và cho cô ấy đi sang Anh học lên tiến sĩ.” Văn Địch ngừng một lúc rồi nói tiếp, “Học được hơn một năm, sang năm hai nghiên cứu sinh thì bố cô ấy được chẩn đoán mắc bệnh ung thư phổi.”
“Cô ấy nghỉ học trở về chăm sóc bố. Điều trị một năm, xài hết tiền nhưng người vẫn đi, ” Văn Địch nói, “Bây giờ nhà Vu Tĩnh Di chỉ còn mỗi mẹ, sắp về hưu rồi nhưng đến nhà cũng không có. Cô ấy vốn định tìm một công việc ở quê, ở với mẹ tới hết đời nhưng mẹ cô ấy lại khuyên cô ấy rời đi, nói rằng ở lại đây chỉ tổ lãng phí tài năng, sau đó cô ấy liền tới Bắc Kinh. Bây giờ Vu Tĩnh Di vừa dạy IELTS ở một trung tâm vừa thi vào Bộ Ngoại giao. Lúc còn học đại học cô ấy chưa bao giờ nghĩ rằng sẽ đi làm công chức. Anh xem, cho dù ban đầu đang đi trên con đường phù hợp nhưng cuối cùng cũng có thể lệch hướng đó thôi.”
Ba năm thống khổ của Vu Tĩnh Di có thể tóm tắt thành một câu chuyện kể trong vài phút. Văn Địch nhìn những gương mặt non trẻ trong sân trường kia. Trong mắt bọn chúng đời người vẫn còn vô số khả năng, ngày mai vẫn còn tràn đầy hy vọng.
“Thế giới chính là một sân khấu vĩ đại, tất cả mọi người đều diễn sai vai, ” Văn Địch nói, “Người nên nghiên cứu ngôn ngữ học giờ đang dạy IELTS, người nên làm đạo diễn đang ở ngân hàng đầu tư và cựu học sinh ban Tự nhiên đang nghiên cứu văn học.”
“Một, hai người sai cũng có thể bỏ qua nhưng vì sao mọi người đều sai hết vậy?” Cậu thở dài nhìn Biên Thành, “Cho nên tôi ghen tị với anh, từ đầu đến cuối chỉ có anh là người diễn đúng kịch bản.”
Thiên phú, cần cù và may mắn, cộng với hào quang của thế hệ cha ông, tới tận hôm nay vẫn có thể duy trì được ánh sáng rực rỡ của chủ nghĩa lý tưởng.
Thật tuyệt vời, chủ nghĩa lý tưởng.
Cậu thở dài, đi vòng qua hồ nhân tạo hướng về khu cấp hai, Biên Thành nghi hoặc gọi cậu lại: “Bãi đậu xe ở phía bên kia.”
“Tôi biết,” cậu nói, “tôi phải đi tìm một người.”
~~~~