*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.
Edit: Meg
Thời điểm kinh thành náo nhiệt nhộn nhịp nhất là vào giữa tháng ba và tháng tư, từng cánh hoa đào lất phất rơi xuống để lộ nhụy hoa vàng nhạt bên trong, trên cành cây nhú lên những mầm non nhỏ rồi cũng dần dần chuyển sang màu xanh biếc.
Vừa đặt chân vào cổng thành là sẽ nhận ra được sự ồn ào rộn vang khác hẳn với những thôn xóm ở trấn nhỏ dọc đường đi, nơi đây có khoảng trời trong vắt cùng những tia nắng ấm áp, vài tốp trẻ con nô đùa chạy nhảy cùng nhau, chúng sẽ nghịch ngợm bẻ cành liễu để bắt chước việc thổi kèn, từng cánh diều đủ màu sắc cũng đương dang rộng cánh trên nền trời xanh.
Ninh Hoàn quay về phủ Thái tử.
Mới sáng sớm Sở Hà đã nhận được tin Ninh Hoàn sắp về tới nơi, hắn vừa giương mắt nhìn đã thấy Thái tử phi khoác trên người chiếc áo choàng dày rộng đang tiến vào. Ninh Hoàn ném chiếc áo gấm trắng tinh lên người Sở Hà rồi đi vào trong: “Cho người chuẩn bị nước nóng.”
Sở Hà đã tích được một đống chuyện để bẩm báo lại cho Thái tử phi, song Ninh Hoàn vừa mới vượt đường xa về đến phủ, cả thể xác lẫn tinh thần y đều đã kiệt sức, căn bản không có tâm trạng để nghe Sở Hà nói chuyện.
Người kinh hỉ hơn Sở Hà chính là Điệp Thanh, nàng và những người khác không hề biết Ninh Hoàn đã đi đâu, thời gian qua vẫn cứ tưởng y đang nghỉ ngơi ở sơn trang. Điệp Thanh vội vàng tiến lại: “Sao tiểu thư mặc dày thế ạ? Ở sơn trang lạnh lắm sao?”
Càng đi về phía Nam thì nhiệt độ cũng càng ngày càng cao, song cả Ninh Hoàn lẫn thủ vệ đi theo đều không mang y phục mỏng, lúc đi đường cũng không gặp được phiên chợ nào cả, mà dù có gặp được thật thì y cũng tuyệt đối không mua những đồ xấu xí như vậy, vì thế chỉ có thể nhịn nóng mấy ngày.
Sau khi vào phòng y cũng không vội ngồi xuống, đồ đạc nơi đây vẫn giữ nguyên vị trí giống như lúc y chưa rời đi, chiếc lư hương làm từ sứ xanh đang được đốt hương an thần, nhóc mèo trắng như tuyết đang nằm ngoan ngoãn trên nệm mềm, nghe thấy tiếng nói chuyện thì quay đầu lại hóng hớt.
Ninh Hoàn đứng bên cửa sổ uống chút trà, chờ nước tắm đun xong y bèn đi tắm rửa thay y phục.
Sau khi ra khỏi phòng tắm thì mái tóc dài của y đã thấm ướt một nửa, trên người Ninh Hoàn mặc y phục mỏng màu thuần trắng, dáng người thon gầy cao hơn nha hoàn đang đi cạnh y rất nhiều, Sở Hà vội vàng đuổi theo y: “Bẩm Thái tử phi, chuyện của Huệ Dân Dược Cục và Thái Y Viện đã xử lý xong xuôi vào tháng trước rồi ạ, Vi Túc và đệ đệ hắn đều bị xử tử, Vi gia thì bị lưu đày, cùng thời điểm đó đã có người mới được đề bạt lên chức Lễ Bộ thị lang, song chức vị Viện sử của Thái Y Viện vẫn đang để trống. Gần đây có vài vị thần y mới vào kinh, trong số đó có một đại phu rất được bệ hạ ưu ái.”
Ninh Hoàn không để ý lắm: “Bổn cung muốn nghỉ ngơi hai ngày, chạng vạng ngươi hẵng quay lại…”
Sở Hà cảm thấy bản thân rất giống với câu “Hoàng đế chưa vội thái giám đã gấp”, hắn tiếp tục nói: “Ngài có muốn tìm cơ hội gặp mặt vị đại phu này không? Hắn có vẻ rất khó mời đấy ạ.”
Ninh Hoàn uống một hớp trà: “Chút nữa rồi nói, tổ yến đâu?”
Điệp Thanh vội đáp: “Còn đang đun ạ.”
Ninh Hoàn duỗi tay ra, Tuyết Mãn lập tức hất cằm lên cho y vuốt, nhóc mèo trắng này được chăm bẵm rất khá, lông toàn thân chỗ nào cũng mềm mại bóng loáng, hoàn toàn không sợ người. Sở Hà thấy Ninh Hoàn thà chơi với mèo cũng không muốn nghe hắn nói, song hắn vẫn cố gắng nói nốt những chuyện còn lại: “Trong phủ Thái tử cũng có chuyện xảy ra, bởi vì không có ngài tọa trấn nên ngày nào đám thị thiếp trong Thấm Phương Viên cũng lục đục —”
Ninh Hoàn xoa xoa vùng giữa hai mày, bây giờ y chỉ muốn tìm cây kim khâu kín cái miệng ồn ào của Sở Hà lại.
Ninh Hoàn liếc mắt ra hiệu cho Điệp Thanh: “Đuổi hắn ra ngoài rồi đóng cửa viện Lê Tuyết Đường lại, hai ngày sau mới mở ra.”
Sau khi ăn tổ yến xong, Ninh Hoàn nằm lên giường ngủ bù, bởi cả thân lẫn tâm y đều rất mệt nên chỉ vừa dính gối là đã thiếp đi, một giấc ngủ này kéo dài hết hai ngày, trong lúc ngủ y còn không tỉnh giấc lần nào. Cho đến buổi sáng ngày thứ ba, khi bầu trời ngoài kia đã bắt đầu hửng nắng, bấy giờ Ninh Hoàn mới thức dậy nhờ những tiếng chim hót líu lo trên cây.
Lúc quan sát bản thân qua gương đồng, Ninh Hoàn mới nhận ra y đúng là đã gầy hơn trước đây một chút, mặt mũi còn vì ngủ quá lâu mà dính vài nét bệnh tật ốm yếu.
Y vừa ra ngoài đã đụng phải Tuyết Mãn đang ngoạm một con chim nửa sống nửa chết vung vẩy trên mặt đất, trông dáng vẻ nó còn rất vui vẻ, cánh của con chim kia đã không thể bay nữa, Tuyết Mãn càm một lúc thì nhả nó ra, hai mắt lóe sáng mà dùng chân trước vồ lấy nó, một lúc sau chơi chán rồi thì bắt đầu ăn.
Cuối cùng thì Sở Hà cũng được cho vào, hắn nhìn thấy cảnh mèo ăn chim thì giật mình: “Đừng nói đây là chim do Thái tử phi nuôi đấy chứ?”
“Chỗ này không nuôi chim chóc.” Ninh Hoàn ngẩng đầu nhìn cây lê mọc trong viện, mấy ngày nay vừa đúng vào độ hoa lê nở rộ, những cánh hoa trắng muốt chụm lại thành từng mảng trông rất bắt mắt: “Anh vũ[1] cũng không nuôi.”
[1]
Phần lớn những hộ phú quý trong kinh thành đều thích nuôi anh vũ, nhất là loại có thể nói được, há mồm kêu “Lão gia” ngậm miệng gọi “Tiểu thư”, rất giỏi khiến người khác yêu thích. Song Ninh Hoàn lại đang nuôi mèo, mèo và chim vốn không thích hợp để nuôi chung với nhau, rất dễ khiến chim chết.
Sở Hà nói: “Nếu là chim hoang dã thì tốt rồi, thuộc hạ sợ nó ăn nhầm phải chim mà ngài nuôi. Dạo gần đây trong kinh rất thịnh hành thú vui nuôi chim chóc, mấy thương nhân đến từ nước Thục còn mang theo một loài chim tên là Vương Mẫu, đuôi của nó cực kỳ dài, lúc bay lên trông rất xinh đẹp, từng cọng lông màu ngọc lục bảo sáng lấp lánh rực rỡ, nghe nói một ngàn lượng bạc còn không mua nổi một con đâu ạ.”
“Nơi này không nuôi chim chóc, ngươi nghe không hiểu à?” Ninh Hoàn chậm rãi lên tiếng, chốc lát sau đã có vài nha hoàn vác một cái thang đến, “Ai ra giá một ngàn lượng mua chim?”
“Nhiều lắm ạ, Tiêu Vương thế tử, Duệ Vương điện hạ, vài vị công tử thường xuyên tụ tập cùng Võ An Hầu, còn có mười một vị Công chúa…” Sở Hà liệt kê tất cả những người hắn biết ra, “Bọn họ đều là người có bạc, mà nhiều bạc quá không biết làm gì thì dĩ nhiên sẽ tiêu xài vào những thứ vô bổ.”
Ninh Hoàn nhận chiếc kéo bạc từ tay nha hoàn rồi bước lên thang.
Sở Hà há hốc mồm nhìn y, hắn chưa từng thấy nữ nhân nào đã thành thân rồi mà lại đi trèo cây, mà tiểu thư khuê các chưa xuất giá cũng hiếm ai làm thế.
Gió xuân ấm áp phất qua mặt y, Ninh Hoàn đang mặc áo ngắn màu thiên thanh và váy lụa màu ngọc bích, cổ tay áo nhỏ hẹp tuột xuống để lộ đoạn cổ tay trắng sáng như ánh trăng, y chậm rãi cắt vài nhánh hoa lê rồi đưa cho Điệp Thanh đang đứng bên dưới.
Sở Hà cứ cảm thấy có gì đó quái quái, song hắn vẫn không thể nói được là quái chỗ nào. Một lúc lâu sau mới cảm thán, cái danh xưng mỹ nhân đệ nhất kinh thành này đúng là có sức nặng thật, y phục bình thường như thế mà Thái tử phi cũng có thể mặc thành dáng vẻ khuynh quốc khuynh thành.
Ninh Hoàn lên tiếng: “Nói chi tiết những gì liên quan đến vị thần y kia cho bổn cung.”
Những cành hoa lê bị y lôi kéo bắt đầu ào ạt rụng xuống, trên vai y cũng vì thế mà xuất hiện vài cánh hoa, màu trắng muốt hòa vào sắc xanh nhìn cũng cực kỳ đẹp.
Sở Hà bắt đầu kể lại lai lịch của vị thần y kia: “Người này không có lòng tham giống như Vi Túc, trước đây là người hành y để cứu giúp dân chúng, xuất thân từ gia tộc quyền quý, trong nhà có ngàn mảnh ruộng màu mỡ, hồi trẻ từng đến thôn Quý Châu giúp đỡ vài người dân ở đó —”
Ninh Hoàn hơi trầm ngâm: “Bây giờ khác xa so với ngày xưa à?”
“Nghe nói sau khi phụ mẫu hắn chết, trong nhà xảy ra xung đột do tranh giành gia sản nên tính cách hắn đã thay đổi rất nhiều, không tiếp tục phí thời gian ở nơi thôn quê nữa mà bắt đầu kết thân với những vị quan to quyền quý.”
Sở Hà kể lại tất tật cho Ninh Hoàn hết hai khắc.
Trong lúc nghe hắn nói Ninh Hoàn vẫn luôn ngồi trên cây, cây lê này tuy không quá cao song cũng không phải dạng lùn tịt, người bình thường mà ngồi trên đó ít nhiều đều sẽ cảm thấy sợ hãi, nhất là còn ngồi trên cái cành cây mảnh khảnh như vậy. Nhưng từ đầu đến cuối mặt mũi Ninh Hoàn vẫn vô cảm, sau khi Sở Hà nói xong y mới leo thang xuống dưới đất.
Y cầm khăn vải lau lau tay: “Được, ta biết rồi.”
Sở Hà tha thiết hỏi: “Ngài có dặn dò gì không ạ?”
“Sẽ có việc cho ngươi làm, nhưng để chút nữa đi.” Ninh Hoàn đưa khăn cho nha hoàn đứng bên cạnh: “Phương Bắc thế nào rồi? Có tin gì mới không?”
Mặt mũi Sở Hà lập tức xuất hiện nét cười, hắn vui vẻ mở miệng: “Hôm qua tin tức mới đến kinh thành, Thái tử điện hạ của chúng ta thắng trận rồi ạ, ngài ấy diệt sạch toán quân do Hạ Thuật Tất cầm đầu đến không còn manh giáp. Hiện giờ ai ai trong kinh thành cũng đang bàn tán chuyện này đấy ạ.”
Thái tử là thân sinh nhi tử của Hoàng hậu, không cần biết rốt cục hắn là cốt nhục của tiên đế hay là Hoàng đế, thì hắn vẫn luôn là trữ quân danh chính ngôn thuận, sẽ chẳng ai có thể sửa được xuất thân ấy của hắn. Truyền thống của Đại Lạc triều xưa nay vẫn luôn là đích trưởng tử kế thừa gia nghiệp, điều lệ này đã tồn tại được mấy trăm năm qua, chưa một lần nào dao động, trừ phi Mộ Cẩm Ngọc phạm phải tội lớn tày trời hoặc là đã mất mạng, thì lúc đó ngôi vị Thái tử mới có thể rơi xuống đầu kẻ khác.
Hiện giờ Thái tử còn đang có quân công, hơn nữa còn là công lớn do đánh đuổi được Phong Đan khỏi Đại Lạc, sau đợt này Hoàng đế muốn lung lay địa vị Thái tử của hắn cũng rất khó.
“Thái tử điện hạ có bị thương không?”
“Lần này không bị thương ạ.” Sở Hà cực kỳ vui vẻ: “Hình như điện hạ chỉ bị thương trong lần mai phục quân viện binh của Phong Đan thôi, thuộc hạ được người khác kể lại như thế.”
Kỵ binh của Đại Lạc đã dò xét được nơi đóng quân của Phong Đan, bọn họ nhân lúc đêm khuya vắng lặng trộm hạ độc xuống nguồn nước của quân địch. Nọc độc chiết từ sâu bụng đỏ hòa loãng vào nước xong lại bị đun lên để nấu thức ăn thật ra đã không còn hiệu quả được như lúc đầu, chút độc tính ấy không đủ để tạo thành một đợt chết người cho đám quân lính cường tráng của Phong Đan, song vẫn đủ khiến bọn chúng tiêu chảy hàng loạt.
Quân y đi theo Mộ Cẩm Ngọc lên tiền tuyến không có hiểu biết nhiều về độc tính và thuốc giải của sâu bụng đỏ, nhưng người Phong Đan quanh năm sinh sống tại nơi đây thì lại biết rất rõ, song chúng chưa bao giờ nghĩ tới nọc độc của đám sâu này lại được tinh luyện thành nước độc có thể tan ra trong nước, cho nên chưa bao giờ suy xét đến tình huống này.
Sau khi quân địch trúng độc rồi đau bụng cả đám, Mộ Cẩm Ngọc lập tức dẫn dắt kỵ binh đánh thẳng vào doanh trại của chúng, hầu hết quân lính Phong Đan đều không kịp cầm lấy vũ khí chứ đừng nói đến chuyện cưỡi ngựa, chỉ có thể chịu chết để những mũi tên tẩm độc ghim vào cơ thể. Nước độc trên mũi tên có nồng độ cao hơn rất nhiều so với độc loãng mà bọn chúng dùng để đun nấu, dù cho có thể may mắn chạy trốn thì kết cục của những người đấy cũng chỉ có tử vong.
Vài tháng trước, thời điểm Phong Đan tiến về phía Nam để tàn sát con dân Đại Lạc, mỗi một tướng sĩ của chúng chỉ cần nhìn thấy dân thường là sẽ cướp bóc, hàng trăm hàng vạn những dân chúng chăn nuôi gia súc vô tội nơi biên ải đã bị chúng giết hại, không biết bao nhiêu thôn xóm làng mạc bị đồ sát đến mức không còn một sinh mạng nào, đất đai nâu sậm cũng bị nhuốm thành màu đỏ tươi. Mấy vạn dân chúng Khung Châu bị bọn chúng vây nhốt lại trong chính bức tường thành quê hương, bị biến thành nô lệ và lương thực dự trữ, đón nhận những cái chết đau đớn không có chút tôn nghiêm nào.
Mâu thuẫn giữa hai nước cũng không chỉ mới xảy ra trong vài tháng chiến trận này, mấy năm qua Phong Đan cũng đã không ít lần đánh đập cướp bóc những con dân nơi biên ải của Đại Lạc, cho nên kết quả của trận chiến lần này là mấy vạn binh lính của Phong Đan bị tàn sát, toàn bộ khu vực Ngụy Môn Quan chất chồng xương trắng, máu chảy thành sông, song những tướng sĩ đi theo Mộ Cẩm Ngọc lại chỉ cảm nhận được sự sung sướng tràn trề khi đã báo được thù lớn, đây cũng là những gì Phong Đan đáng nhận.
Tin tức về chiến trận rất nhanh đã được truyền đến những châu khác ở phía Bắc, dân chúng nơi nơi đều vô cùng vui mừng hân hoan, kha khá quan viên ở kinh thành cũng đã bắt đầu thay đổi cái nhìn về Thái tử.
Nghe xong chuyện này, Ninh Hoàn cười nhẹ: “Đúng như dự kiến.”
“Chắc Thái tử điện hạ sẽ sớm hồi kinh thôi.” Sở Hà chà xát tay, “Giờ đây ngài ấy đã không còn giấu tài nữa, cả kinh thành nhất định sẽ cực kỳ trầm trồ sợ hãi.”
Ninh Hoàn nhìn hắn thì lại cười: “Tạm thời Thái tử sẽ chưa về đâu, ngài ấy đã định sẽ giết Vương của Phong Đan để giải quyết trong một lần luôn, muốn bọn chúng phải hoàn toàn mất đi khả năng ngóc đầu lại lần nữa.”
Hạ Thuật Tất chỉ là Đại Hoàng tử của Phong Đan, số tướng sĩ chết trận lần này của bọn chúng chỉ có thể khiến chúng im ắng được vài thập niên, đợi đến khi Phong Đan nuôi quân lớn mạnh lần nữa, chắc chắn chúng sẽ lại xâm phạm quốc thổ Đại Lạc. Mộ Cẩm Ngọc muốn chặt đứt đường lui của bọn chúng.
“Thật sao? Vậy thì lại phải mất vài tháng nữa rồi.”
Sở Hà lại bắt đầu lo lắng cho an nguy của Mộ Cẩm Ngọc.
Ninh Hoàn tìm một cái bình gốm để cắm hoa lê vào, thời gian nó nở quá lắm cũng chỉ được vài ngày. Y mang bình hoa đặt vào trong dược phòng, nơi này cũng không khác gì thư phòng riêng của y, cạnh cửa sổ còn được đặt bàn nhỏ và văn phòng tứ bảo[2].
[2]
Không khí của kinh thành khác biệt rất nhiều so với những nơi khác, bởi đây là mảnh đất phồn vinh và náo nhiệt nhất của Đại Lạc, có rất nhiều tiểu thương sẽ đến đây để mở sạp buôn bán, cũng có kha khá những người đến từ nước khác nhập cư tại đây. Người đến người đi không ngừng nghỉ, cứ cách một khoảng thời gian là đồ vật thịnh hành trong kinh cũng sẽ thay đổi.
Hai ngày nay Ninh Hoàn thường xuyên đi dạo trên phố xá, y bắt gặp không ít những vị công tử trẻ tuổi tay xách theo một cái lồng chim, mà trong mỗi lồng đều là những con chim với đủ mọi màu sắc khác nhau.
Y cũng tham gia cuộc vui này bằng cách làm ra một cái lồng chim màu vàng, nhưng là một cái lồng chim trơ trọi chẳng có gì, dù là một vật trang trí nhỏ cũng không, hơn nữa đây vẫn chỉ là một bán thành phẩm, phần đỉnh gắn móc và bệ chim đều chưa thấy đâu.
Sở Hà ngồi xổm bên cửa sổ xem Thái tử phi nghịch ngợm cái lồng sắt này, Thái tử phi nói muốn làm ra một cái lồng thật đẹp để nhốt chim chóc, nhưng trong kinh thành cũng có rất nhiều sư phụ chuyên làm lồng chim cơ mà, Thái tử phi chỉ cần nói một câu thôi là hắn sẽ đi xách mấy người đó tới phủ ngay lập tức. Sở Hà nghĩ mãi cũng chỉ có thể đưa ra kết luận, có lẽ mấy vị sư phụ hành nghề vài thập niên đó làm không đẹp được như Thái tử phi.
Ninh Hoàn bảo hạ nhân đi kiếm cho y ngà voi, gỗ tử đàn, sừng tê giác, lưu ly, con đồi mồi và vài loại đá quý nhiều màu khác. Trang sức lúc thành thân y mang theo tới đây cũng có không ít, mở rương ra kiểu gì cũng sẽ tìm được vài món đồ trông rất tinh xảo, Sở Hà quan sát Thái tử phi ngồi điêu điêu khắc khắc lên ngà voi và gổ tử đàn vài cái, sau đó lại không chút chần chừ giật luôn viên huyết thạch[3] to như trứng chim bồ câu đính trên mũ phượng, tiếp theo đó còn đập vỡ một cái vòng tay phỉ thủy màu xanh biếc. Cuối cùng thì sau mấy ngày ngủ không ngon giấc, Sở Hà đã được chiêm ngưỡng một cái lồng vàng cực kỳ tinh xảo xinh đẹp, cho dù có đem đến trước mặt Ngọc Hoàng Đại Đế thì cũng không sợ mất mặt.
[3]
Bởi vì ngày xưa Ninh Hoàn đã từng rất phá của, cộng thêm việc y từng chơi cùng một đám công tử cũng phá phách không kém, nên dĩ nhiên y biết cái gì mới có thể thu hút được sự chú ý của những vị phá gia chi tử này.
Tuy vàng bạc đá quý nhìn có vẻ rất tục, không thể đem so với sự thanh nhã của tranh vẽ cành trúc hoa lê hoa cúc được, song nó lại là những đồ cực kỳ thích hợp để khoe mẽ thân phận địa vị, bởi cái đám người phá của ấy thích nhất là phô trương danh tiếng. Ninh Hoàn đã nhìn quá nhiều những món đồ đẹp đẽ rồi, y hiểu nhất là cách phối hợp chúng ra sao để toát ra được vẻ cao quý không thô tục, trên ngà voi được y khắc hoa văn sen trắng, phần nhụy hoa thì đính thêm những viên ngọc bích và đá quý nhỏ, phần thân lồng còn được y gắn vô số châu báu, hốc đựng thức ăn cho chim và cửa lồng đều được tráng men xanh hình hoa sen.
Sở Hà hỏi: “Nương nương định dùng chiếc lồng đẹp như này để nhốt loài chim nào ạ? Ngài cũng muốn nuôi một con sao? Hay để thuộc hạ đi mua một con Vương Mẫu về?”
“Ta không nuôi.” Ninh Hoàn nói, “Cái này để đem đi đấu giá.” Ai ra giá cao nhất thì mua được.
Sở Hà đáp: “Lồng này ở kinh thành chính là độc nhất vô nhị.”
Giờ hắn cũng đã ngộ ra lý do Thái tử phi muốn tự tay làm cái lồng này, nếu để một vài vị sư phụ có tiếng tăm đụng vào thì rất có thể sẽ xuất hiện ba bốn cái giống nhau y như đúc, vật hiếm là vật quý, món đồ độc nhất như thứ này chắc chắn sẽ càng quý giá hơn thế.
Sở Hà bắt đầu suy đoán ý định của Ninh Hoàn: “Ngài muốn bán cho ai? Có phải Duệ Vương điện hạ không? Chúng ta ra giá một vạn lượng bạc lừa hắn một phen?”
Hai mắt Ninh Hoàn cười cong cong, y vẽ thêm vài nét mực vàng cuối cùng lên phần đế lồng rồi mới để nó sang bên cạnh: “Lúc đó rồi nói sau, lui xuống đi, bổn cung muốn viết thư cho Thái tử.”
Hắn cũng sắp trở về rồi, cũng nên viết một bức thư báo bình an.
Ninh Hoàn cầm lấy thỏi mực, đổ một chút nước vào rồi bắt đầu mài, sau khi đầu bút lông đã thấm ướt, y hạ bút xuống viết lại những chuyện đã xảy ra trong kinh thành dạo gần đây, hết hẳn một trang giấy mới dừng lại, phần đề tên là hai chữ Ninh Hoàn, viết xong y cuộn lại để sang bên cạnh.
Trong lúc nhất thời không biết phải làm gì, Ninh Hoàn lấy thêm một tờ giấy khác ra, y vô thức nhớ lại khung cảnh lạnh lẽo hoang vu ở đất Bắc, nơi đó dường như không cùng một thế giới với kinh thành phồn hoa này. Mực nước chấm mãi không hết, dường như Ninh Hoàn đã thả hồn vào cõi thần tiên nào đó, song cây bút y cầm trong tay lại chưa hề dừng lại, vừa thong dong vừa nhàn nhã viết đi viết lại ba chữ Mộ Cẩm Ngọc, tổng cộng là bốn mươi ba nét bút, dù tên người nọ phức tạp hơn tên y rất nhiều, song viết rồi lại thấy cũng không khó lắm, thế là y cứ vô thức viết kín hết cả tờ giấy bằng kiểu chữ Khải nhỏ, phần đề tên cũng là hai chữ Ninh Hoàn.
Nhiệt độ bên ngoài lại bắt đầu nóng lên, những con chim không biết từ đâu đến lại đứng trên cây kêu loạn lên khiến người ta thấy phiền, Ninh Hoàn nằm trên bàn sách ngủ gật một giấc, khi tỉnh lại thì mực trên giấy đã khô, y bèn gấp lại rồi nhét vào phong thư, lá thư đầy ắp chữ được thủ hạ truyền tin đến phương Bắc.
Lúc Mộ Cẩm Ngọc mở thư ra, đập vào mắt hắn là một tờ giấy kín mít đều là tên của mình.
Hắn hơi khó hiểu, tuy rằng A Hỉ từ nhỏ đã làm thái giám, không có chút kinh nghiệm tình trường nào, song bên cạnh hắn cũng chẳng còn ai có thể hỏi chuyện này nữa, Mộ Cẩm Ngọc vẫn quyết định hỏi A Hỉ: “Thái tử phi có ý gì, y gửi tới một bức thư nhưng lại chỉ viết đầy tên của cô.”
A Hỉ ngẫm nghĩ một lúc nhưng vẫn nghĩ không thông, nên cuối cùng hắn đành phải nịnh nót vài câu dễ nghe: “Thái tử phi nương nương tình sâu nghĩa nặng với điện hạ, chắc là ngài ấy đang nhớ nhung điện hạ lắm cho nên mới viết đầy tên của điện hạ đấy ạ.”
Mộ Cẩm Ngọc thấy lời này vô cùng hợp lý, hắn lập tức muốn cứa tay vẽ thêm một bức huyết đào cho Ninh Hoàn.